Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Văn Học Dân Gian Quảng Trị

Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đă được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được h́nh thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy.

cây khếQuảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu ḥ; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Ḥ Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đă tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.

Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu ḥ; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Ḥ Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đă tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.

Thơ Ca Ḥ Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ b́nh dân mang tính đại chúng, cho thấy rơ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:

 

I / Tục ngữ:

A. Về thời tiết và sản xuất

C̣ ăn ruộng sâu th́ nắng

C̣ ăn ruộng cạn th́ mưa

 

Công cấy th́ bỏ, công làm cỏ th́ ăn

Chớp ngă Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ

 

Đập đất nhỏ, luống đánh to

Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào

 

Đói th́ ăn môn ăn khoai

Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng

 

Trăng rằm đă to lại tṛn

Khoai lang đất cát đă ngon lại bùi

 

Xứ Cùa đất đỏ ba dan

Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu

 

B. Về đời sống xă hội

 

Liệu cơm mà gắp mắm ra

Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô

 

Khun ba năm không ai biết

Dại một giờ bạn hay

 

Đi buôn bữa lỗ bữa lời

Ra câu giữa vời bữa có bữa không

 

Ai ơi chớ lấy học tṛ

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

 

Khoai lang cổ bở cổ trân

Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi

 

Bỏ công múc nước đường xa

Có trong th́ múc, ngà ngà th́ thôi

 

Sui gia là bà con tiên

Ăn ở không hiền là bà con quỷ

 

II / Câu đố:

Hai người ở hai buồng

Ngó đi nh́n lại như tuồng cấm cung

Đêm về sập cửa thả chông

Ngày th́ ṿi vọi đứng trông nhau hoài

(Hai con mắt)

 

Gặp nhau đây bất luận đêm ngày

Lật ra xem thử lỗ này ở đâu

Đâm vô th́ rút ra mau

Đừng để trung nớ mà đau ḷng nàng

Rút ra máu chảy tràn lan

Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa

(Đạp gai)

 

Họ hàng chỉ sống trên non

T́m cây hút nhụy nuôi con tháng ngày

Không may lửa dậy khói bay

Thảm thương ấu tử sống rày thác mai

(Tổ ong bị đốt)

 

Cây xanh mà lá cũng xanh

Dầm mưa dăi nắng theo anh vơ vàng

Một mai lửa đỏ thành than

Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi

(Cây thuốc lá)

 

III/ Vè:

Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ư giáo dục .

 

A. Vè Ba Ḷng:

 

Thanh trời rạng thấy núi xây

Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương

Trà Tŕ, Văn Vận hai phường

Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận ḥa

Tháng năm bắp đă tới mùa

Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang

Bao nhiêu thao vải, lụa hàng

Vật ǵ phường chợ cũng băng ngàn trải lên

Đ̣ th́ mắm nục, mắm nêm

Đ̣ th́ cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường

Đ̣ th́ gạo, nếp, trứng, đường

Đ̣ th́ vàng bạc, lược, gương, cau trầu

Đ̣ th́ ghè, đục, ang, âu

Tréc, om, tŕnh thống, dĩa dầu, b́nh vôi

Buôn chi th́ nỏ có lời

Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao

Buôn chi than, vải lụa thao

Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa

Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi

Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao

 

B. Vè thằng nhác

 

Lẳng lặng mà nghe

Kể vè thằng nhác

Gia đ́nh khổ cực

Vợ yếu con thơ

Chồng ai được nhờ

Chẳng nên tṛ trống

Nửa ngày thức dậy

Lục đục soong nồi

Vắt áo đi chơi

La cà hàng xóm

Vợ nhờ cày ruộng

Tao bị đau chân

Vợ nhờ quét sân

Đau lưng vẹo cổ

Vợ nhờ bửa củi

Cái búa nó hư

Vợ bảo đi bừa

Sợ rằng trâu húc

Vợ nhờ đi gặt

Tao gánh đau vai

Thở ngắn than dài

Tội t́nh chị vợ

Ấy thế mà!

Nồi cơm vừa dở

Chưa kịp ai mời

Cúi cổ cúi tai

Một hồi chén sạch

Là cái thằng nhác

Ăn dữ không làm

Hỡi xóm hỡi làng

Nghe vè thằng nhác

 

C. Vè con gái

 

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè con gái

Tay chân mềm mại

Khác thể bông ba

Chờ mẹ đi ra

Cắp tiền thu dấu

Muốn ăn khoai nấu

Muốn ăn khoai nướng

Muốn ăn xôi chè

Ăn rồi ngồi xếp bè he

Cái lưng bơ bừng cái thúng

Ăn chùng ăn vụng

Cho sướng cái thân

Việc nỏ muốn mần

Dôông th́ muốn lấy

Áo năm bảy cấy

Mược vào đi chợ

Béng ướt dụy tôm

Hai tay bóoc lá

Lộ mồm hả ra

 

IV/ Đồng dao

 

Bập bong bong tay mô khôông tay mô có

Bập ḅ bọ tay mô có tay mô khôông

Chị lấy dôông em ở quá

Chị ăn cá em mút xương

Chị đường em mật

Chị vật em coi

Chị voi em ngựa

Chị bựa em bèn

Chị kèn em trống

Chị trống em mái

Chị méo em tṛn

Hai ḥn về chị

Rầm rà rầm ŕ

Xây lúa Đồng Nai

Cơm gạo phần ngài

Tấm cám phần tui

Lờ đệng cháy nhà

Bà già chạy chựa

Cháy nửa bồ thóc

Lóc cóc chạy về

Ông Đề hỏi răng

Cu Nhăng cắn nhện

 

Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng gị – Gị chi – Gị móng – Móng chi – Móng heo

 

V/ Câu đối

Văn vận tuột quần Văn vận vận

Bích La đau bụng Bích La la

 

Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ

Bích giang không nón, Bích giang giang

 

Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp

Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao

 

VI/ Ca dao

Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu t́nh cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ t́nh cảm b́nh dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền ḥa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi t́nh huống, hoàn cảnh về gia đ́nh, xă hội, đặc biệt là về t́nh yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở

Quan hệ gia đ́nh

 

Biết răng chừ cá gáy hóa rồng

Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa

 

Chị em như chuối nhiều tàu

Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời

Cây kia ăn quả ai trồng

Sông kia uống nước hỏi gịng từ đâu

Cơ đồ gầy dựng bấy lâu

Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài

Mộ phần ǵn giữ hôm mai

Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường

 

Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương

Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi

 

C̣n cha gót đỏ như son

Một mai cha chết, gót con đen ś

 

Mẹ già ham việc tiếc công

Cầm duyên con lại thu đông măn rồi

Măn rồi cai đội hồi hương

Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng

 

Ra đi bố mẹ ở nhà

Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng

 

Quan hệ xă hội

 

Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ

Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh

Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê ḿnh

Cho em nhắn gởi chút t́nh nhớ thương

 

Bạn về không có chi đưa

Môn khoai đang dại, mít dừa đang non

 

Cây cao bóng mát chẳng ngồi

Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim

 

Cây khô xuống nước cũng khô

Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo

 

Con quan lấy đứa mần than

Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo

 

C . Quan hệ lứa đôi

 

Trăng lên tới đó rồi tề

Nói chi th́ nói, em về kẻo khuya

 

Bướm vàng đậu đọt cau tơ

Kiếm cái nơi mô nương tựa

Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài

 

Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp là cơm nguội những khi đói ḷng

 

Đi mô cho thiếp đi cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo

 

Cam chua, quưt ngọt… bồng the

Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành

 

Xa anh có bấy nhiêu ngày

T́nh em như mảnh trăng gầy nửa đêm

 

Hai ta mót củi một cồn

Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa

 

Em đương vút nếp hong xôi

Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp ch́m

 

Ai hay nông nổi mần ri

Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời

 

Anh đă có vợ thời thôi

Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều

 

Anh về đừng có ngó lui

Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương

 

Anh đưa em lên đến ngă tư ṣng

Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ

 

Được nên chồng nên vợ th́ hay

Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê

 

VI. Ḥ:

Ḥ là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một h́nh thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu ḥ và cách ḥ tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi th́ ḥ hụi, giă gạo th́ ḥ khoan, ḥ hô, chèo đ̣ th́ ḥ mái nh́, nếu đ̣ mắc cạn th́ ḥ mái đảy, ḥ rủ rơm, ḥ đánh bài thai, bài cḥi, ḥ kéo gỗ, ḥ ru và ḥ đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu ḥ tiêu biểu:

 

A. Ḥ ru:

Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đă thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo gịng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc t́nh cảm, nghe măi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:

 

Khi con thức Mẹ cho con bú

Khi con lú Mẹ lại ru hời

Nuôi con cực lm con ơi

Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng

Để lấp biển vá trời như ai !

 

Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử

Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu

Mai đây bóng xế trăng lu

Con ve kêu mùa hạ

Biết mấy thu đợi chờ

 

Em nghe anh đau đầu chưa khá

Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông

Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm

Lại ngọn gió lồng em che

 

Ru hời ru hỡi là ru

Bên cạn thời chống bên su thời chèo

 

Xây thành đp lũy trên non

Cm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày

Một mai lửa dậy khói bay

Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai

 

Ơn cha ba năm báo bổ

Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang

 

Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn

Lấy chi trả nghĩa sinh thành

Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ

 

B. Ḥ đối đáp:

Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng răi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đă tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng ḥ rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Ḥ ân t́nh và Ḥ đâm bắt.

 

1) Ḥ ân t́nh

Loại này đơn giản dễ ḥ, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đă có sẵn, chỉ cần nhập vai là ḥ được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm ḥ thường được chọn ở những nhà rộng răi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường th́ các cô gái đă đợi sẵn c̣n các chàng c̣n ṿng ṿng ngoài ngơ hay trước sân:

Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu

Vô đây phân giải đôi điều cho vui

 

Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:

Chào lê chào lựu chào đào

Ai xa chào trước ai gần chào sau

Chào bên nam mất ḷng bên nữ

Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên

Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào

 

Ai có chồng th́ khuyên chồng đừng sợ

Ai có vợ th́ xin vợ đừng ghen

Ra đây ta ḥ hát cho quen

Rạng ngày ai về nhà nấy…

Khá thể ngọn đèn hai tim

 

Đó là màn dạo đầu, cuộc ḥ sẽ tiếp tục:

Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao

Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

 

Nam: Con mắt em sắc hơn dao

Ḷng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

 

Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít

Trầu cả chợ răng gọi trầu không

Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi

Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ

Cây không đi học răng kêu cây thông

Anh đă đối đặng em theo chồng về mau

 

Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi

Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè

 

Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi

Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu

 

Nữ: Em như bông sen trong hồ

Các anh như bèo như bọt nh́n chi được cơ đồ nơi em

 

Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo

Cho sen ch́m xuống bèo trèo lên trên

 

Nữ: Em đây như con rồng vàng

Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời

 

Nam: Anh đây có phép thần thông

Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi

 

Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng

Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh

 

Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn

Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi

 

Kiến ḅ cột sắt sao ṃn

Con ṿ ṿ xây tổ sao tṛn mà xây

Kiến ḅ cột sắt thành đàn

Con ṿ ṿ xây tổ khám vàng cũng xây

 

Thương thay các cậu chự ḅ

Cái lưng môốc thếc thếc

Bộ gị đen thùi thui

Em về dở sách ra ḍ

Cha em lúc trước cũng chự ḅ như anh

 

Trai không vợ như chợ không đ́nh

Mưa dông một trộ ghé ḿnh vào đâu

 

Trai chưa vợ lo pḥ vua vệ quốc

Chợ không đ́nh tại thợ mộc suy vi

Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng

 

2) Ḥ đâm bắt:

 

Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đ̣i hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có th́ giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh ḥ thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ư và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này v́ gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lư luận phê b́nh văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:

Trong đêm ḥ tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu ḥ đă đánh đ̣n phủ đầu các nam nhi:

 

Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra

Cực ḷng em lắm mẹ cha hỏi hoài

Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ t́nh, thực ra chị này đem “việc riêng” của ḿnh ra để so sánh xưng tụng thật là hết ư . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:

Anh ra ba em cũng ra

Anh c̣n sống, ông cụ thác xuống ngă ba mất rồi

 

Một hôm khác tại Gia Đẳng:

Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi

Con ḅ cái đi trước, con ḅ đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè

Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con ḅ cái đi trước, con ḅ đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng

 

Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Ḷng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm ḥ lại diễn ra:

Liệu bề đát được th́ đan

Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười

 

Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta b́nh tĩnh tung đ̣n phản công rất ngoạn mục:

Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài

Lận th́ đè côi đè xuống, c̣n nức th́ xỏ ngoài xỏ vô

 

Đến hiệp hai th́ nam danh ḥ bối rối:

Ra đường lại gặp anh Ba

Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!

 

Chàng ta xin khất, đi t́m bà cô: là một danh ḥ đă gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đă chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:

Anh ở trung nớ mới ra bựa qua

Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy tṛ

Anh nhanh chân anh tới trước c̣n cậu ḷ ḍ theo sau !!!

 

Có những cô gái thật là ĺ lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:

Anh làm thợ mộc khéo đă ra chi khéo

Đóng bức đố xéo đă ra chi tài

Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để tḥi ḷi mộng ra

 

Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:

Anh đă đưa cái lại chàng ra chắn mộng

Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan

Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn

 

Cũng đă có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:

Em mua cho anh cái dù tám cóng

Dưới có mốc đồng

Răng anh không đội

Để đầu không rứa hè

 

Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đă b́nh tĩnh phản công:

Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng

Em đem về cho cha em đội cho nội em che

Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi

 

Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:

 

Tiếng đồn em lấy chồng già

Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng

Tre già c̣n dẻo hơn măng

Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ

 

Văn nghệ dân gian như đă nói là một chất liệu ngôn ngữ ḥa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công tŕnh t́m kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.

 

Lê Văn Trạch

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18