Home Tìm Ca Dao Trợ Giúp Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
QUẢNG NAM QUA CA DAO
                                     Nguyễn Quý Ðại  Munich
 
                                               “ Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm
                                                 Rượu Hồng Ðào chưa uống đã say
  Bạn về đừng ngủ gác tay
  Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo”.
 
                                                                                    
            Nói đến Quảng Nam người ta thường nghĩ đến vùng đất mở đầu cho cuộc Nam tiến từ đó làm bàn đạp tiến đến đồng bằng sông Cửu Long.
 
Quảng Nam có các nhà cách mạng, khoa bảng gọi là đất “ Ðịa Linh Nhân Kiệt” “Ngũ Phụng Tề Phi”, góp phần vào xây dựng đất nước, đem lại điểm son lịch sử nước nhà, và cũng là vùng đất của thi ca, đóng góp vào lâu đài Văn Hóa Dân Tộc.
 
Trong nhân gian ca dao truyền tụng qua câu hò giọng hát, phong phú và lãng mạn. Câu chuyện cô gái hái dâu tại Ðịên Bàn nhờ tâm hồn văn nghệ lời ca trữ tình, giúp cho nàng bước lên  đỉnh cao của danh vọng. 
 
Theo Ðại Nam Liệt truyện Tiền Biên, nhân chuyến công du của Sãi vương vào thăm Quảng Nam, xem xét công việc của Trấn thủ Nguyễn Phúc Kỳ, có Nguyễn Phúc Lan con thứ của Sãi Vương sinh 13.8.1601 là cháu ngoại của Mạc kính Điển. Đi du thuyền trên sông trong đêm gió mát trăng thanh, dừng thuyền bên gành Ðiện Châu thuộc quận Ðiện Bàn ngày nay. Thế Tử Lan thấy trăng đẹp bèn xuống một chiếc thuyền con sai tuỳ tùng chèo đi vừa câu cá vừa ngắm trăng. Thuyền Thế Tử đang lững lờ trôi giữa dòng bỗng nghe tiếng hát cất lên từ ven sông:  Trong đêm vắng nghe giọng ca từ xa vọng lại.
 
                                   Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng
                                   Thiếp thương phận thiếp mà hồng nắng mưa
                                   Thuyền rồng Chúa ngự đi đâu
                                   Thiếp thương phận Thiếp hái dâu một mình
 
         Tiếng hát trong trẻo của người con gái giữa một đêm trăng gợi trí tò mò của thế tử. Thế Tử Lan cho thuyền cập vào bờ nơi có tiếng hát. Đó là một bãi đất trồng dâu ở ven sông. Khi lên bờ, Thế Tử Lan bắt gặp một thiếu nữ thật đẹp đang ngồi ngắm trăng. Nguyễn Phúc Lan tìm đến với nàng, như hai siêu tần số tâm hồn gặp nhau, tình yêu đến thật tình cờ không hẹn ước, phải chăng đó là duyên nợ định mệnh an bài. Sãi vương cho phép Nguyễn Phúc Lan làm lễ thành hôn với nàng “hái dâu” là  Ðoàn Thị Ngọc con gái thứ 3 của quận công Ðoàn Công Nhạn quê Ðiện Bàn

        Thế Tử xin Chúa cho phép nàng được vào hầu trong phủ. Kể từ đó, bà trở thành phu nhân thế tử. Khi thế tử nối ngôi Chúa năm 1635-1648 Nguyễn Phúc Lan lên ngôi là Công-Thượng-Vương, bà Ðoàn Thị Ngọc được Sãi vương sủng ái đưa lên chánh phi, phong Hiếu-Chiêu Hoàng-Hậu. Bà trở thành Chính Phu Nhân. Bà là người công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên rất được Chúa sủng ái cũng như được mọi người trong phủ kính yêu. Bà mất năm Tân Sửu (166, lăng bà tại Gò Cốc Hùng, núi Chiêm Sơn, Quảng Nam
 
 Ca dao là di sản văn hóa, văn chương bác học của dân tộc Việt Nam là những câu hát bình dân, thông thường trong sinh hoạt xã hội .Ðược truyền tụng từ đời nầy sang đời khác, ca dao mang mọi hình thái khác nhau theo thời gian, nói lên tình yêu của tuổi xuân nam nữ, trên cánh đồng lúa với trưa hè trong tiếng ve sầu bên cây phượng vĩ, hay nỗi buồn chia tay của tuổi học trò, diễn tả mọi sinh hoạt đời sống, với thiết tha hay tiếng thở dài vì tuyệt vọng, nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, cảnh tan thương bất mãn hay lòng hào hùng trong đấu tranh dành lại độc lập...Mỗi địa phương có những câu ca dao khác nhau,
 
            Người Quảng Nam tiếp xúc văn minh ngoại quốc, từ thế kỷ thứ 17.Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời, ngược lại Tây Phương có tài về khoa học kỷ nghệ, bởi thế không có gì tuyệt đối với việc tiếp xúc học hỏi của người dân Quảng Nam, Tổ tiên khi xưa đặt chân đến nhận vùng đất Chiêm Thành với bản tính can đảm lúc đến lập nghiệp trong vùng đất mới khai phá. Thích canh tân tiến bộ trong tình thần dân chủ, cởi mở thích phát biểu ý kiến và phải có lý luận rõ ràng. Ai nói điều gì mơ hồ không có dẫn chứng đúng thường bị cãi lại ngay. Cãi trở nên truyền thống của người Quảng Nam, bởi thế ca dao có nói về cá tính trong sinh hoạt xã hội
 
 
                                   Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngải hay lo
                                   Bình Ðịnh nằm co, Thưà Thiên ăn hết
  
            Ðời sống gia đình, tình yêu mộc mạc của vợ hiền đảm đang việc nhà, dành thì giờ cho chồng yên chí học hành đỗ đạt ra giúp đời, hay hai người chỉ mới yêu nhau nhưng chờ ngày bái tổ vinh qui .
Ngày xưa các thì sinh Quảng Nam, phải vượt đèo Ải Vân ra Huế thi trong các kỳ thi do triều đình tổ chức, vác lều chỏng ứng thí nhà giàu đi ngựa, nghèo thì đi bộ có người gánh phụ hành trang đường xa cách trở
 
Các chàng trai xứ Quảng ra Huế thi, thấy nàng gái Huế mặc áo dài, mái tóc thề tung bay trong gió nhẹ của sông Hương, đi qua cầu Trường Tiền sáu vày mười hai nhịp. khác với hình ảnh người yêu hay vợ hiền ở Quê nhà có thể với cái nhìn ngẩn ngơ
 
                                    Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành.
 
            Sau nầy trai Quảng Nam ra Huế học Ðại học không còn ngẩn ngơ, đến nổi đi không đành..như các cụ ngày xưa, học xong Ðại học đi làm việc khắp nơi, không giới hạn làm quan ở triều đình Huế. Những thành phố Hội An, Ðà Nẳng,Tam Kỳ trở nên sầm uất, các nàng gái xứ Quảng cũng xinh đẹp, văn minh dịu dàng.. nên các chàng  sưả lại chữ  “thấy “ ra  chữ  ”mấy”
 
Tình yêu lòng thủy chung thường nhắc đến, dù học hành đỗ đạt làm quan, đừng quên tình yêu thuở ban đầu lưu luyến ấy.
 
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
                                   Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ
                                   Quay tơ vẫn giữ mối tơ,
                                   Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh.
                                                      **
                                   Non non, nước khơi chừng
                                   Ái ân đôi chữ xin đừng quên nhau
                                   Tình sâu mong trả nghĩa đền
                                   Ðừng vui chốn khác mà quên chốn nầy 
 
Vợ chồng quê ngày ngày bận rộn việc ruộng đồng, ban đêm còn tranh thủ thời gian làm thêm việc nhà, không mong ước gì cao xa ngoài lòng chung thủy 
 
                                   Ðêm hè gió mát, trăng thanh
                                   Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp chừng
                                   Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
                                   Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
                                   Trăm năm thề những bạc đầu
                                   Chớ ham phú quí đi cầu trăng hoa.
 
 
            Tình yêu khép kín trong lễ giáo gia đình „tình trong như đã, mặt ngoài còn e” nhưng tình yêu của phố Hội An cũng lãng mạn dành cho thi nhân và khách vãng lai
 
                                   Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
                                   Ðể thương , để nhớ, để sầu cho ai,
                                   Ðể sầu cho khách vãng lai,
                                   Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu
                                  
                                  
                                   Trưa hè Chuà Cầu
 
Hội An  nơi hẹn hò của các cặp nhân tình trong các mùa làm việc chung với nhau
 
                                   Thương nhau chớ quá e dè,
                                   Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be.
                                   Thiếp nói thì chàng phải nghe
                                   Thức khuya, dậy sớm, làm chè10 ngày 12 xu
                                   Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo
                                   Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
                                   Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
                                   Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau
                                   Lạy trời, mưa xuống cho mau
                                   Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp nhau
                                                    
Tình yêu có thể vượt không gian và thời gian không còn ngăn sông cách núi dù ở đâu cũng có thể tìm đến, ngày xưa thiếu phương tiện giao thông, phải vượt núi đèo tìm đến với người  yêu trong đời sống mộc mạc của hoa đồng cỏ nội, hay trên đồi sim tím
 
                                   Ðói lòng ăn nửa trái sim
                                   Uống lưng bát nước đi tìm người yêu (thương)
 
hay
Thương nhau , mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội , mấy đèo cũng qua   
 
Khoảng cách  không thể so sánh với tình yêu, đường xa cách trở có thể thâu gần lại
 
                                   Rằng xa: cửa ngõ cũng xa
                                   Rằng gần : Vĩnh-Ðiện, La-Qua cũng gần
 
            Thân phận con gái đi lấy chồng, nhưng hình ảnh sinh hoạt trong gia đình không thể quên dù được sống hạnh phúc bên chồng, nhưng đôi lúc chạnh lòng nhớ thương cha mẹ
 
                                   Chiều chiều ra đúng ngỏ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều mây phủ ải vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn
 Hay
                                   Chiều chiều mây phủ Sơn trà
Lòng ta thương bạn, nước mắt và  lộn cơm
                                                     
Người Quảng Nam tính tình cương trực, nói thẳng, không giấu diếm nỗi lòng, trong tình yêu  gia đình, xã hội đạo làm người luôn được tuyệt đối tôn trọng
 
                                   Ðối với ai ơn trọng , nghĩa dày
                                   Một hột cơm cũng nhớ
                                   Một gáo nước đầy vẫn chưa quên
 
Người chồng vì bổn phận đi xa, vợ hiền lo gánh vác việc nhà nuôi con phụng dưỡng mẹ già, giữ lòng thủy chung, mong ước ngày đoàn tụ dưới mái ấn gia đình để con có mẹ có cha, Truyền thống đàn bà Việt Nam hy sinh giúp chồng mong làm nên sự nghiệp, vợ khôn ngoan làm quan cho chồng tiễn đưa chồng ra đi không  phải là những nụ hôn nồng nàn, nhưng là lời nhắc nhủ 
             
Anh đi em ở lại nhà
                                   Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
                                   Lầm than bao quản muối dưa
                                   Anh đi ! anh liệu chen chân với đời
             Hoặc
                                   Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông
                                   Thấy nước xanh như tàu lá,
                                   Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn
                                   Thấy phố xá nghinh ngang
                                   Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
                                   Ðào sông cù nhĩ , tìm vàng Bông miêu.
                                   Dặn tấm lòng , ai dỗ cũng đừng xiêu,
                                   Ở nuôi Thầy Mẹ, sớm chiều cũng có anh
 
            Các địa danh Tý Sé Hòn Kẻm, Ðá Dừng nhưng chúng ta chưa một lần bước chân đến đó. Xem lại bản đồ Quảng Nam địa danh trên nằm trên sông Thu bồn phát xuất từ trên nguồn chảy qua giữa quận Quế Sơn và Ðại Lộc, nhưng thưở xa xư a có thể người ta đến đó làm việc, trên sông dưới nước với cảnh khỉ ho cò gáy, nhớ về Mẹ là nhớ về cuội nguồn dân tộc
 
                                   Ngó lên Hòn-Kẻm, Ðá-Dừng ,
                                   Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi
 
            Công ơn sinh thành của cha mẹ cao như trời, rộng như biển, con cái có lòng hiếu thảo đó là nguồn an ủi đối với cha-mẹ lúc tuổi già. Nhắc lại tình mẫu tử cao qúy, qua kinh nghiệm cuộc sống nhắn gởi ai còn cha mẹ nên giử lòng hiếu thảo.  
 
                                   Lên non mới biết non cao
                                   Nuôi con mới biết công lao Mẫu từ
 
                                   Công cha như núi Thái Sơn
                                   Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
 
            Người mẹ hiền thường răng dạy con gái qua ca dao như thứ luân lý thực hành
 
                                   Mình là con gái trong nhà
                                   Hình dung yểu điệu nết na dịu dàng
                                   Khi ăn khi nói chững chàng
                                   Khi ngồi khi đứng bỉ bàng dung nghi
 
             Sống với quê nhà bên lũy tre xanh, trên con đường làng bé nhỏ, hay phải đi xa một phương trời nào, khó có thể quên được quê hương xứ Quảng, kỷ niệm gắn bó cuộc đời, sau năm 1975 làng sóng bỏ nước ra đi tìm tự do, được định cư khắp nơi trên Thế giới, hội nhập vào văn minh xứ người, nhưng nỗi lòng người ra đi viễn xứ vẫn canh cánh bên lòng nhớ thương về quê Mẹ, mỗi địa phương mang một đặc thù riêng
 
                                   Ai đi cách trở sơn khê
                                   Nhớ tô Mì Quảng, tình quê mặn mồng
 
                                   Hội An đất hẹp, người đông
                                   Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu
 
                                   Hội An bán gấm, bán điều
                                   Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
 
                                    Chiêm Sơn,, là lụa mỹ miều
                                   Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ
 
                                   Chồng em là lái buôn tiêu
                                   Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng
                                  
  Cây đa chợ Hội An
 
            Dãy trường sơn chạy dọc theo bờ bể từ Nam Ô cho tới Chu Lai phần lớn dân số sống về nông nghiệp và ngư phủ cùng nhau phát triển kinh tế. Các quận trên nguồn như Tiên Phước, Quế Sơn...muốn ăn cá phải mua cá hấp chín, bán vào các buổi chợ sớm, các loại mắn người miền biển gánh lên nguồn đổi lấy ngũ cốc, tùy theo các mùa, nhưng loại cá chuồn, người ta thường làm thính hay hấp, cá chuồn nấu với mít non  một món ăn ngon tuyệt vời
      
                                   Ai về nhắn với ngọn nguồn
                                   Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên  
                        Cây mít
             Trái bòn bon bé nhỏ nhưng có hương vị ngọt, ngày xưa khi vua Gia Long hái ăn khi vượt núi băng ngàn để chống lại nhà Tây Sơn. Thống nhất Sơn Hà 1802, đặt tên trái bòn bon là "Nam-Trân", trái măng cụt tại miền Nam tên là "Giáng-Châu", để nhớ lại lúc thiếu lương thực nhà vua và quân lính thường hái  các trái cây trên
 
                                   Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
                                   Trái thầu dầu trong héo ngoài tươi
                                   Em thương anh ít nói ít cười
                                   Ôm duyên ngồi đợi chím mười con trăng
 
Vùng biển cát trắng Nam Ô nằm dưới chân đèo Ải Vân, sản xuất nước mắn ngon không thua gì Phú-Quốc hay Phan-Thiết. Chúng ta ít nhất một lần ăn với dưa cải muối với nước mắn Nam Ô
   
                                   Nói cho lắm cũng nước mắn dưa cải
                                   Nói cho phải cũng dưa cải nước mắn
 
Tường Linh có những vần thơ đi vào văn học
 
                                   Ðêm Ðà Nẵng vọng về cơn gió biển
                                   Bún chợ Chùa thương nước mắn Nam Ô
 
             Quận Hòa Vang gíap Ðà Nẳng có bến xe Ðò Xu, ngả ba Hòa Cầm quận lỵ tại Cẩm Lệ nơi sản xuất nem, tôi không hút thuốc nhưng nghe người ta thường nói nơi nầy nổi tiếng một vùng trồng thuốc thơm ngon, gọi là thuốc lá Cẩm Lệ các vùng Thanh Qúit cũng trồng cau, thuốc lá được các ghe thương gia tới mua bán
 
                                   Tơ cau thuốc lá đầy ghe
                                   Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.
 
            Hội An làm bánh tổ một đặc sản, vùng Tiên Ðỏa từ Hương An trở vào cho đến quận Thăng Bình vùng cát trắng phau thích hợp cho việc trồng khoai lan .
 
                                   Nem chả Hòa Vang
                                   Bánh tổ Hội An
                                   Khoai lan Tiên Ðỏa
                                   Thơm rượu Tam Kỳ
 
 Quận Trà My tại Quảng Nam trồng Quế vỏ nhiều dầu, phẩm chất cao đặc sản nơi nổi tiếng các nơi khác trồng nhưng có thể xa khí hậu phong thổ chất lượng kém, bởi vậy khó nơi nào sánh bằng,
 
                                   Quế Trà My thứ cay thứ ngọt
                                   Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh
                                   Phàn du, bạch chỉ rành rành
                                   Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân
 
Quế  sản phẩn giá trị như Yến ở cù Lao Chàm nổi tiếng thơm ngon và đắc tiền
 
                                   Ðầy hàng tháng 8 ngát mùi hương
                                   Sửa quế người xem khá rộng ràng
                                   Số chở hàng năm khôn kể xiết,
                                   Bán xong lại đến lấy thêm hàng..
 
Lời ru ngọt ngào của mẹ hiền, tiếng ru à ời ngọt ngào âm thanh kéo dài, trong những trưa hè nắng gắt, đem lại cho con giấc ngủ bình yên, liên khúc ca dao trữ tình như lời nhắn nhủ, lớn lên phải khôn ngoan vào đời. Nhờ truyền khẩu nên các bà thuộc lòng các câu ca dao kết hợp lại thành liên khúc ru con
 
Ru con con thét cho muồi
                                   Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
                                   Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
                                   Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh
                                    ( Tùy theo mổi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )
 
                                   Công cha nghĩa mẹ chớ quên
                                   Ơn vua lộc nước mong đền con ơi
                                   Như vầy mới gọi rằng trai
                                   Trên lo nghĩa Chúa, dưới mài Thảo thân.
                       
                                   Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuộc đi đâu vắng nhà
Chú chuộc đi chợ đường xa
Mua mắn mua muối giổ cha chú mèo
 
            Các nàng được ví von như tấm lụa đào đẹp, như những giọt mưa sa trong mỗi dạo xuân về, con gái dịu dàng tha thước, nhưng thân phận so sánh như 12 bến nước trong nhờ đục chịu, tình yêu duyên nợ cột vào với nhau, tình yêu chỉ là giấc mơ cho phương trời viễn mộng? Ngày xưa chịu ảnh hưởng gia đình “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” nhưng có câu "ép dầu ép mở ai nở ép duyên”.
 
                                   Thân em như tấm lụa đào
                                   Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?
                                   Thân em như hạt mưa rào
                                   Hạt sa bãi cát, hạt vào vườn hoa
                                   Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đồng nội, hạt sa vũng lầy. 
 
 
            Quảng Nam có những trang sử oai hùng và bi đát, qua các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp.Tình thần yêu nước hy sinh của sĩ phu và những người dân quê, họ sống trên cánh đồng lúa bờ dâu, hiền từ chất phát không hận thù. Dưới thời Pháp thuộc bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mọi người cùng nắm tay nhau lên đường đấu tranh. Phong trào đấu tranh xin xâu giảm thuế phát xuất tại Quảng Nam đánh dấu một kỷ nguyên mới dưới thời nô lệ.
 
                                   Ðất Quảng Nam từ năm bính ngọ (1906)
                                   Xâu ngũ nhật, công sưu công ích, đường trường làm tột núi cao
                                   Thuế bách phân gia ngũ gia tam,đủ ngón vét từng xu nhỏ
                                   Mãi tới xuân nầy (1908) cực đà hết chỗ,
                                   Ra tết trời làm tai biến, hạn hán tiêu khô
                                   Nhiều nơi đất bỏ hoang dân tình đói khổ..
 
Làng sóng đấu tranh nổi lên toàn tỉnh Quảng Nam sau đó kéo dài các tỉnh miền Trung
 
Ðời ông cho tới đời cha
Ðời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn nhà đóng thuế, vợ gầy con khô.
Ðời xưa thuế một quan năm
Ðời nay thuế lại hai đồng bốn giác
Con tay bồng tay dắt
Vợ tay đỡ tay mang
Vui chi mà hát mà mừng
Mua ngày mà ở cầm chừng với Tây
Từ ngày Tây chiếm Ðế đô
Xâu cao thuế nặng , biết  chừng mô hởi trời !
Còn lo một nỗi khổ đời
Quan trên ỷ thế nặng lời hiếp dân. 
 
                                                           ***
 
Kể từ Ðồn Nhất kể vô
Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xuống Hàn
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra
Ngó lên chợ Tổng bao xa
Bước qua Phú Thượng, Ðại La, Cồn Dầu
Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu
Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp năm
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.
 
Thời tiết các năm ấy hạn hán bị mất mùa, thu hoạch ngũ cốc chưa đủ sống, nhưng bọn sai nha thâu thuế lấy xâu không nương tay, chỉ muốn thu tiền cho đầy túi dâng cho bọn thực dân hưởng thụ, bắt dân phu đi làm đường đào mỏ.. sống chết mặc bay. Người dân Quảng Nam không chịu đựng cảnh người bóc lột người của thời  nô lệ, từ đó họ đã biến đau thương thành hành động
 
Tháng giêng cho chí tháng hai
Con dân áo rách quần xài đi ra
Mười lăm cho đến ông già
Cơm đùm, ruột tượng, xuống tòa lãnh ban
Chức sắc cho chí diên quan
Làm đơn  kêu gọi các làng xin xâu
 
                                                           ***
 
Kể từ cầu Ông Bộ kể ra
                                   Cây Trâm, Trà Lý, bước qua Bàu Bàu
Tam Kỳ, chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua  đường cái, thấy lầu ông tây
Chiên Ðàn, Chợ mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông tây rộn ràng
Hàlam gần sát Phù Ðàng,
Phía ngoài bãi cát, Hương an nằm dài,
Cầu cho gái sắc, trai tài.
Ðồng tâm xây dựng, tương lai huy hoàng
 
Thực dân Pháp và tay sai đàn áp các cuộc biểu tình xin xâu kháng thuế, nhiều người bị kết án tử hình, trong đó Ông ích Ðường cháu nội Ông ích Kiêm bị bắt tử hình ở Túy loan. Ông trùm Thuyết bị chém vì hô những tiếng lớn lên án Trần Tuệ chuyên ăn hối lộ làm cho đề đốc Trần Tuệ là tay sai đắc lực với Pháp sợ qúa hộc máu mà chết .
 
Tiếng hô uất hận của dân tộc lầm than, đói khổ bị đè nén lâu ngày,tiếng hét được mọi người hưởng ứng để đánh đổ bạo quyền và tay sai. Nên ca dao và vè đấu tranh lưu truyền mãi mãi.
 
                                   Cậu Ðường mười tám tuổi đầu
                                   Dẫn dân công ích xin xâu dưới tòa
                                                           *
                                   Bắt anh trùm Thuyết dẫn ra,
                                   Dẫn ra dân tưởng quan tha cho về
                                   Chém anh trùm Thuyết gớm ghê
                                   Gươm đao âm phủ ba bốn bề cách xa
                                                                      
Các Phong trào chống thực dân dù bị đánh dẹp, không tránh khỏi cảnh bất công trả thù gông xuyền tù đày bắt bớ, chém đầu, máu của dân tộc Việt Nam đổ ra khá nhiều, nói riêng tại Quảng Nam Phong trào trên làm cho chính sách của bọn thực dân phải chùn bước. Phan Châu Trinh (1872 -1925) Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Nguyễn Thành (1863-191 đều bị bắt cùng nhiều người khác đày ra Côn đảo. Trần Quý Cáp(1870-1908)
 
        Ca dao mang chúng ta trở về nơi xa mù quá khứ, hoài nhớ lại kỷ niệm của tuổi thơ  được nghe tiếng hát mẹ hiền..Kỷ niệm như đang len lỏi vào hồn, như khởi dậy nỗi niềm xa xứ , nhắc nhở chúng ta đừng quên cội nguồn. đừng quên bổn phận với Quê hương bên kia bờ Ðại dương 
 
 
                                                                           Nguyễn Quý Ðại

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18