Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 



Thạch Bích biên soạn


Các cụ nhà ḿnh vẫn bảo rằng:„Miếng trầu là đầu câu chuyện“. Đúng thế! Muốn tán em, cứ mời em đi thưởng thức bún riêu ốc, cua nướng hay hủ tiếu Mỹ Tho ở Bamboo Grill. C̣n muốn ngồi cà cưa, đưa nhau ra Hè Phố. Nếu em là gái „Bắc ḱ di cư“, dẫn em đi ăn ... Phờ 54 cho được việc. Cuối tháng, hầu bao có xẹp, ít nhất cùng em ghé Bánh ḿ Chợ Cũ, kiếm cái gặm đỡ. Trước khi dźa, d́u em qua bên Thạch Cali nữa, là ... chắc ăn một trăm phần dầu!

Không phải chỉ có dân An Nam ḿnh coi trọng miếng ăn đâu nhé; dân Đức, mắt xanh tóc vàng mũi lơ, cũng kháo nhau: „Liebe geht durch den Magen!“, nghĩa là „T́nh yêu đến qua bao tử!“. Ấy! Cái miếng trầu quan trọng là thế, nên trong ca dao, tục ngữ của ḿnh „ăn“ chiếm một vị trí rất đáng kể:

Ăn tiêu, nhớ tỏi bùi ngùi
Ngồi bên đám hẹ, nhớ mùi rau răm
Hỡi người quân từ trăm năm,
quay tơ có nhớ mối tằm hay không?


Tuy thế, có ăn, cũng ăn có chừng, có mực, chớ cái kiểu:

Ăn rồi nằm ngửa nằm nghiêng
Có ai (muốn) lấy tớ th́ khiêng tớ về


dám có ngày bội thực, nằm đưa cái bụng ễng ương lên trời, hóa ra … hỏng chuyện!

Người ḿnh c̣n bảo: “Nhà sạch th́ mát, bát sạch ngon cơm”, nghĩa là ăn thường đi đôi với .

Chỉ ăn thôi, chưa đủ! Rủng rỉnh tí tiền bạc, sau khi chắc dạ rồi, phải mặc cái “sơ mi” màu cà chua mới chín, hay mẫu chim c̣ xanh xanh, trắng trắng, gọi là … cho đời biết tay!

Tột đỉnh của ăn là … nhậu, nhưng nhậu vào, lời ra, nói vung vít …

Ăn no, thường buồn ngủ, buồn ngủ phải lăn kềnh ra nằm

Nhiều thành ngữ đă được cấu tạo bằng cách tách đôi các động từ kép này ra (ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn nằm…), cũng như một trạng từ kép nào đó, rồi ghép lại với nhau:

Ăn gian, nói dối (trạng từ: gian dối)
Ăn dơ, bẩn (dơ bẩn)
Ăn dầm, nằm dề (dầm dề)
Ăn sung, mặc sướng (sung sướng)

Có khi hai trạng từ khác nhau được ghép vào hai phần của động từ kép đă được tách ra:

Ăn no, nằm khèo (no, khèo)
Ăn quịt, nói điêu (quịt, điêu)

Các trạng từ này có thể cùng nghĩa như:

Ăn chắc, mặc bền (chắc, bền)
Ăn to, nói lớn (to, lớn)

Cũng có trường hợp các trạng từ phản nghĩa với nhau, càng làm câu thành ngữ thêm rơ nghĩa:

Ăn xuôi, nói ngược (xuôi, ngược)
Ăn thừa, nói thiếu (thừa, thiếu)

Dĩ nhiên nh́ều động từ khác (với các động từ kép kể trên), cũng như cả danh từ cũng được sử dụng (làm túc từ cho động từ):

Ăn tươi, nuốt sống (động từ: ăn, nuốt)
Ăn lông, ở lỗ (danh từ: lông, lỗ)

Trong câu:

Ăn đợi, nằm chờ

đợi, chờ đều là động từ, nhưng trong trường hợp này đă được dùng như trạng từ, phụ nghĩa cho hai động từ ăn và nằm.


 

Bún ốc riêu cua


Trong các động từ kép: ăn ở, ăn mặc, ăn nói … ăn chỉ là trợ từ, nghĩa chính là động từ phía sau. Cho nên, khi cô con gái than với bồ:

- Anh dụ em đem đôi bông tai đi cầm, lấy tiền cho anh đánh bài. Bây giờ thua hết, em biết ăn nói sao với thầy bu đây ?!

Ở đây, cô gái chỉ lo lắng, t́m cách nói dối đấng sinh thành thôi, không hề được ăn cái giải rút ǵ cả!

Như thế trong các thành ngữ trên, vế sau là chính.

Khi một người bị chê trách là “ăn thật, làm dối”, v́ người đó làm việc cẩu thả, không đến nơi, đến chốn. C̣n người đó có được “ăn thật” hay không, chờ hạ hồi phân giải!

Nói chung các câu thành ngữ nếu không có vần như: “Ăn theo, nói leo”, ít nhầt cũng có điệu, nghe xuôi tai. Nhất là ca dao rất có vần, có điệu, thường theo thể thơ lục bát:

Ăn cơm sao đặng mà mời
Nước mắt lênh láng ră rời hạt cơm
Ḿnh ơi đừng đặng cá quên nơm
Đôi ta gá nghĩa danh thơm để đời


Hay là:

Ăn th́ ăn trước ngồi trên
Đến chừng đánh giặc th́ rên hừ hừ


Cũng v́ vậy trong nhiều câu ca dao, câu đầu chỉ là câu gieo vần, không có ư nghĩa ǵ cả:

Ăn chanh, ngồi gốc cây chanh
Khuyên cội, khuyên cành, khuyên nhánh, khuyên bông
Khuyên cho đó vợ, đây chồng
Đó bế con gái, đây bồng con trai


Hay là:

Ăn sung, ngồi gốc cây sung
Lấy anh th́ lấy, nằm chung không nằm


Tương tự:

Ăn cam, nằm gốc cây cam
Lấy anh th́ lấy, về Nam (Cali) không về


Trong cả ba trường hợp. sự việc “ngồi gốc cây chanh, cây sung” hay “nằm gốc cây cam” không dính dáng ǵ tới ư chính trong những câu sau.

Nếu tổng hợp về cấu trúc của thành ngữ: Tách động từ kép ăn nói, ghép với các từ kép khác như: ṃ ốc, măng mọc, c̣ bay. Người ta đă nói :

Ăn măng, nói mọc
Ăn c̣, nói bay
Ăn ốc, nói

Nói mọc là bày đặt, nói thêm, nói bớt. Nói bay là nói khoác, nói lác. Nhưng từ này có vẻ gượng gạo, ít người dùng. Do đó có người đổi ra là : “Ăn c̣, nói leo“. Nếu xét về cấu trúc thành ngữ, câu này không “chỉnh“, v́ làm ǵ có “c̣ leo“. Họa chăng dùng “c̣“ để chỉ một đấng ông chồng nào đó, mới có vụ c̣ … leo thôi !!!

Như đă phân tích ở trên, vế sau của câu thành ngữ mới là chính, ăn măng, ăn ốc, ăn c̣ … chỉ là gia vị, mắm muối, cho thêm vần, thêm điệu mà thôi. Gần giống như “ngồi gốc chanh, nằm gốc cam” vậy!

Có người dùng “thuyết nhân quả“ để giải thích “ăn ốc, nói ṃ“, rằng : Ăn ốc thường uống rượu, ruợu vào, nhời ra, ăn nói lăng nhăng, ba hoa chích cḥe … Như thế phải nói : “ăn ốc, nói nhảm “, chứ không nói ṃ ! Người khác bảo : “Muốn ăn ốc phải đi ṃ : Ṃ ốc! “. Điều này đúng, nhưng giữa chuyện “ṃ“ và “nói“ cách nhau xa lắc, xa lơ, không bắt quàng được. Cho nên cách giải thích về cấu trúc, vần điệu là đúng hơn cả.

Tóm lại : Muốn ăn ốc, ra siêu thị, bỏ ra vài t́, xách về cả bịch, tha hồ nhậu lai rai, chẳng phải đi ṃ, đi mẫm ǵ sốt. Và đă ăn ốc rồi, không ắt phải nói … ṃ. Cứ vững bụng thưởng thức các món : Bún ốc riêu cua, ốc nhồi hấp lá gừng, ốc bung chuối xanh đậu phụ … Khoái khẩu vô cùng !

Thạch Bích biên soạn



Ốc xào chuối xanh, nước mắm gừng
 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18