|  |  | 
	
		|  | 
			
			Người Hạ ở Đồng Cau
			 
			Trước đây, vào năm l992, chúng 
			tôi đă có thực hiện một đề tài khoa học về "Người Đàng Hạ trên đất 
			Khánh Hoà" chủ yếu nghiên cứu sưu tầm trên địa bàn huyện Vạn Ninh và 
			đă t́m ra một số tư
			liệu đáng quư về tộc người này. 
			Trong quá tŕnh điền dă sưu tầm. Chúng tôi đă phát hiện ra rằng 
			không riêng ǵ huyện Vạn Ninh có người Hạ cư trú mà suốt một dải ven 
			biển miền Trung Trung Bộ, rải rác ở các ḥn đảo, bán đảo, và một số 
			làng người Hạ ở xen lẫn với người Kinh, cụ thể là ở thôn Đồng Cau xă 
			Suối Tân, Huyện Diện Khánh tỉnh Khánh Hoà. Để lư giải thực tế này. 
			Giáo sư Trần Quốc Vượng đă có một giả thuyết trong bài:"Có một giải 
			văn hoá năm đảo ven bờ biển Đông " đăng trong tạp chí Đông Nam á. 
			Theo Giáo Sư Trần Quốc Vượng. Người Hạ (mà Giáo sư gọi đó là người 
			Hẹ - điều này chúng tôi sẽ giải thích sau) thuộc hệ Malayô polinêdi 
			sống dọc theo bờ biển ở các đảo, bán đảo từ Phú Quốc đến Quăng Nam 
			Đà Nẵng (gồm đảo Phú Quốc, đảo Phú Quư, B́nh Thuận, ḥn Cù Hin, Binh 
			Ba - Khánh Hoà, Đảo Điệp Sơn, Bán đảo, Đầm Môn, huyện Vạn Ninh - 
			Khánh Hoà. Hoà Vang Tỉnh B́nh Định, Cù Lao Chàm - Quảng Nam - Đà 
			Nẵng...) 
			 
			Như vậy, việc nghiên cứu về tộc người Hạ đă hé mở một 
			đường hướng mới, sâu hơn và rộng hơn. Việc t́m hiểu xuất xứ nguồn 
			gốc sinh hoạt văn hoá tinh thần và vật chất của người Hạ c̣n là một
			tiềm ẩn chưa giải đáp trọn vẹn. 
			
			 
			Trở lại với Thôn Đồng Cau - xă Suối 
			Tân huyện Diên Khánh, chúng tôi được cán bộ của UB Xă đưa đến gặp 
			người cao tuổi nhất thôn là ông Man Cà - người đang giữ một số tài 
			liệu ruộng đất của làng từ thuở mới lập làng (văn tự chữ Hán Nôm). 
			Ông Man Cà năm nay 75 tuổi, ông nói với chúng tôi: (trích băng ghi 
			âm) ..."Chúng tôi không phải là người trên núi xuống chúng tôi là 
			người Hạ, theo lời kể của ông bà th́ đời ông bà chúng tôi ở Cù Hin, 
			Cù Ho. Trước kia cha ông cũng có tiếng nói riêng, nhưng bây giờ th́ 
			không ai biết
			 
			nữa, tôi c̣n nói được và nghe được 
			tiếng nói của dân tộc Raglay, Chăm..." và ông Man Cà đọc cho chúng 
			tôi nghe một đoạn văn cúng Miếu làng bằng tiếng dân tộc (?) trong đó 
			nhằm dâng lễ cho Thần Biển, Thần Núi và Bà Thiên Y A Na...Thôn 
			người Hạ ở Đồng Cau h́nh thành cách đây hơn l00 năm, trong thư tịch 
			cổ của làng c̣n lưu lại dấu hiệu của đời Vua Khải Định năm thứ 8. 
			Trong tờ (l) của thư tịch cổ này có ghi như sau: 
			'Phê bằng - tạo khai niên tam nguyệt 
			nhị thập nhị nhật" (Khởi tạo tháng 3 ngày 22 - Triện đóng có hai chữ 
			Thuận Khánh nhưng không ghi năm nào)
			- Cửu phẩm chánh ngạch Lê Bá Xuân
			- Điển bộ nguyên thừa hương Ngô Kế - 
			Cẩn Kư
			 
			Thuở ban đầu đến lập làng Đồng Cau 
			chỉ có khoảng l2 người dân trong địa bàn của làng c̣n ghi rơ "thập 
			nhị man đinh"...Như vậy một nghi vấn khoa học: Người Hạ ở thôn Đồng 
			Cau xă Suối Tân trướckia đă cư trú ở những vùng bán sơn địa - Biển - 
			Đảo chứ không phải là một nhánh của tộc người Raglay như nhiều người 
			hiện nay nhận định. Trong bài báo: "Làng dân tộc không có buôn" của 
			tác giả Việt Trường in trên báo Khánh Hoà Chủ Nhật ra ngày l2 - 9 - 
			l999 đă giải thích thiếu cơ sơ khoa học và sai về Họ của người Hạ ở 
			Đồng Cau. Tác giả viết: ‘Cả làng đều mang họ Mang từ thuở khai sinh 
			ra Đồng Cau, ngừơi Pháp đến bắt họ làm phu khuân vác, thấy người nào 
			cũng mang gùi sau lưng, nên đặt cho họ cải họ Mang..." Thực ra, 
			không phải như vậy. Người Hạ ở Đồng Cau mang họ Man chứ  không phải 
			là Mang. Theo Hán - Việt từ điển của Thiền Chửu - nhà in Hưng Long 
			ll7 Tôn Thất Đạm - Sài G̣n - l 996 đă giải thích như sau: 
			
			 
			MAN: Giống Mán ở 
			phương Nam, 
			Chỉ cây mạnh để 
			làm cân gọi là Man 
			Dă Man: gọi là 
			Man
			 
			Điều này ta thấy đúng với nội dung 
			ghi trong các khế ước ruộng đất của người Hạ ở Đồng Cau, v́ người Hạ 
			không có họ nên trong các giấy tờ đất đai thời thuộc Fháp đều ghi 
			trước tên là chữ Man thay cho họ. Trang (25) của thư tịch cổ này có 
			ghi như sau:(tạm phiên âm)"Kết tu điền thổ bộ độ nạp tư man sách 
			tuân hành sự hoàng sở hữu giới hạn tịnh công tư điền thổ đẳng tinh 
			đông tây tứ cận, kê:
			Đông cận ngôi hiệp sơn vi giới
			Tây cận hoả xa lộ ba mươi thước tây
			Dĩ hoá xa lộ vi giới
			Phần măi dĩ mộc trụ vi 
			giới
			Bắc cận Văn Nhĩ phần trung 
			dĩ mộc trụ vi giới
			Đông cận lâm, hưu cận ngôi 
			bàn hiệp sơn, tây cận Man Điền, man là, đẳng mười ba đinh phần khẩu, 
			nam cận Lê Man là, Man Này, Man Mực, Man Trực, Man Thật, Man Lập, 
			Man Tiến, Man Thủ, Man Kỷ...đẳng phần Tam thập đinh. 
			Quân phần quảng nhận canh tác dĩ hạ..."
			 
			Hiện nay người Hạ ở thôn Đồng Cau có 
			73 hộ gồm 233 nhân khẩu. Nghề nghiệp chính của người dân trong thôn 
			chủ yếu là làm ruộng, làm rẫy - không có nghề thủ công, người trong 
			thôn đều theo lương giáo thờ cúng ông bà tổ tiên chứ không theo đạo 
			nào khác. Cuộc sống kinh tế nh́n chung, theo thống kê của UBND xă 
			Suối Tân th́ hộ giàu khoảng 20%, hộ trung b́nh 40%, hộ nghèo 40%. 
			Con em trong thôn được đi học tại trường cấp l, ll của xă. Về di 
			tích lịch sử văn hoá của người Hạ trong thôn Đồng Cau hiện có một 
			ngôi miếu thờ tiền hiền và thờ thánh mẫu. Theo lời ông Man Cà th́ 
			người Hạ đă nhờ người Kinh viết và trang trí Hán tự ở ngôi miếu này 
			việc thờ cúng hiện nay không khác ǵ mấy so với lễ cúng Miếu, Đ́nh 
			của người Kinh trong vùng. Ông Man Cà là người thường đại diện cho 
			dân làng chủ tế miếu hàng năm, lời văn cúng được ông đọc bằng tiếng 
			dân tộc (.) lệ cúng miếu làng thường vào rằm tháng bảy âm lịch hàng 
			năm.
			 
			Để điều tra dân tộc học đơn giản, 
			chúng tôi đă hỏi ông Man Cà về các tên gọi như 
			'Oray Glai", Rai", "Rayl' là những tên gọi tộc người có quan hệ gắn 
			bó với dân tộc Raglay, nhưng ông đều lắc đầu không biết. Vậy, việc 
			người Hạ ở thôn Đồng Cau tự nhận ḿnh là người dân tộc Raglay như từ 
			lâu nay cần phái soát theo tinh thần khoa học nghiêm túc. Dân tộc 
			Raglay là một dân tộc c̣n lưu giữ khá đậm nét văn hoá vật chất và 
			tinh thần như ta đă biết. Riêng  người Hạ ở Đồng Cau th́ không có 
			biểu hiện ǵ về đâu ấn văn hoá Raglay cả Khi trao đổi về tên gọi của 
			người Hạ với Giáo Sư Trần Quốc Vượng, PGS - PTS Nguyễn Xuân Kính, 
			Giáo Sư Trần Quốc Vượng gọi đó là người Hẹ, nhưng theo tôi - ở vùng 
			Khánh Hoà trong cách phát âm, ngữ âm A thường hay bị đọc lệch thành 
			AE, thí dụ: BA 
			đọc thành BA-E(BE), Hạ đọc thành HA-Ẹ (Hẹ). Ở vùng thuộc Vạn Long. 
			Vạn Thạnh huyện Vạn Ninh thường gặp cách phát âm này nhất. Ngay ở 
			địa bàn Khánh Hoà, trước kia, người Kinh thựng gọi người Hạ là Mọi 
			Nước (Cách gọi miệt thị hiện nay đă không c̣n tồn tại nữa) theo nhà 
			nghiên cứu Folklore Lê Quang Nghiêm, ở đảo Phú Qúi (B́nh Thuận) 
			người ta gọi người Hạ là người Ḥn. Như vậy cách gọi tên của tộc 
			người Hạ ở từng vùng khác nhau vẫn có sự khu biệt, cần kiểm chứng cụ 
			thể.
			 
			Việc t́m kiếm, điều tra nghiên 
			cứu về tộc người Hạ đang được Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam thực 
			hiện nhằm xác minh được nguồn gốc của tộc người. Sự thể hiện của văn 
			hoá vật chất tinh thần của người Hạ và sự giao thoa văn hoá với các 
			cộng đồng người khác trên mảnh đất miền Trung Trung Bộ - t́m được 
			những khái niệm đó, th́ trong tương lai, bản chất cụ thể và riêng 
			biệt của tộc người Hạ sẽ được các nhà khoa học giải đáp trọn vẹn, hi 
			vọng là vậy.
			 
			 (l): xem " Văn Hoá và Xă Hội 
			người Raglay ở Việt Nam
			Phan Xuân Biên (chủ biên)
			
			Phan An 
			Phan Văn Dốp 
			Vơ Công Nguyên 
			Nguyễn Văn Huệ - NXB Khoa học   |  |