Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Ý Nghĩa Cái Tên "Sài Gòn"    Print   
Lịch Sử Sài G̣n
Saturday, 02 February 2008 07:00

Chợ Bến ThànhKể từ khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu cử đi lập chính quyền , thì Sài Gòn - Gia Định đã có hơn 300 năm lịch sử ( 1698 - 2008 ). Và trong hơn 300 năm đó , Sài Gòn đã nếm trãi biết bao thăng trầm sóng gió , nhưng không vì thế mà Sài Gòn đánh mất đi giá trị của chính mình...

Có rất nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc của tên gọi "Sài Gòn" , thế nhưng chúng ta có thể chia ra thành 4 giả thiết sau :

Đề Ngạn


Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine, và Garnier, Cholen, th́ năm 1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Ḥa) v́ giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tàn sát phải rút lui theo con sông Tân B́nh (Bến Nghé), chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây Sơn tàn sát một lần nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn" hay "Th́ Ng̣n", đọc theo âm Hán-Việt là "Đề Ngạn" (堤岸). Họ dùng danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây-cóon", "Xi-cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở tức chợ Bến Thành ngày nay.

Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ư. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, th́ "Thầy Ng̣n", "Xi Coón" rất giống "Sài G̣n". Tuy nhiên, theo lịch sử th́ không phải, v́ lịch sử chứng minh rằng Sài G̣n có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc chại ra thành Thầy Ng̣n, Xi Coon.

Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Luỹ Sài G̣n" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài G̣n" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. V́ thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "G̣n". Nếu đọc theo Nôm là "G̣n", c̣n không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán th́ là "Côn".

Như vậy, ngay từ năm 1674 đă có địa danh Sài G̣n, không phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ng̣n tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.

Ngoài ra, về nghĩa lư th́ cả hai chữ này hầu như vô nghĩa theo tiếng Hán. Nếu dịch sát th́ "Đề Ngạn" là "nắm lấy (đề), bờ sông cao dốc (ngạn)". Theo Nguyễn Đ́nh Đầu trong Địa Chí Văn Hoá, tr 219, tập 1, th́ "thành phố trên bến dưới thuyền nào mà không có bờ sông cao dốc, mà không là đề ngạn".

Cuối cùng, nếu tính theo hiện tượng th́ việc người Tàu đặt tên cho địa danh ở miền Nam hầu như không có. Ngược lại, họ gọi theo địa danh của Việt Nam bằng tiếng của họ th́ có. Thí dụ như "Đồng Nai" biến thành "Nông Nại" theo tiếng Tàu.

 

Nhà Hát Thành Phố

 

 

Củi và Bông g̣n


Có thuyết nói rằng "Sài G̣n" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "G̣n" là chữ Nôm chỉ cây bông g̣n.

"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, G̣n là tiếng Nam chỉ bông g̣n. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông g̣n do người Cao Miên đă trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn c̣n ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận. ... Theo ư tôi, h́nh như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa t́m ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."


Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài G̣n" từ chữ "Prey Kor" (Rừng G̣n) hay "Kai Gon" (Cây G̣n) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông g̣n.

Nhưng thuyết này phần lớn đă bị bác bỏ v́ lư do đơn giản là không ai t́m được dấu tích của một thứ "rừng g̣n" ở vùng Sài G̣n, hay sự đắc dụng của củi g̣n ở miền Nam, kể cả Trương Vĩnh Kư. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Kư (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đă không c̣n dấu tích rơ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó không có phát triển ǵ lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, h́nh như cũng không có dấu vết ǵ của một rừng g̣n ở Sài G̣n.

Thêm nữa là cây g̣n thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung Hoa trong Địa Danh th́ "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như "sài Tân" chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nên không thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là "củi g̣n" là "Sài G̣n" được.

Vậy, thuyết Sài G̣n là "củi g̣n" đă bị bác bỏ bởi thực tế địa lư và ngữ học.

Toà Đô Chính

 

 

Prei Nokor


Dựa theo lịch sử và phát âm có thuyết cho là "Sài G̣n" là được phiên âm từ "Prei Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền Angkor (theo nhà sử học Pháp Louis Malleret). Tuy nhiên không có tài liệu nào khẳng định rằng nơi đây từng tồn tại khu dân cư trước thế kỷ 16.

Ông Petrus Trương Vĩnh Kư là người đưa ra thuyết này. Trong tiểu giáo tŕnh Địa lư Nam Kỳ, ông đă công bố một danh sách đối chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, G̣ Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài G̣n là Prei Nokor.

Hai ông Nguyễn Đ́nh Đầu và Lê Trung Hoa đều đồng ư với thuyết này, dựa theo lịch sử và ngữ âm.

Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ư muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras Krabei của Cao Miên để đặt pḥng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá luỹ Sài G̣n. Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor, hay Sài G̣n, đă phát triển lắm.

Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi "Rai Gon Thong" (Sài G̣n Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài G̣n Hạ).

Đó la theo sử sách, c̣n theo tiếng nói th́ Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", "Prei" hay "Brai" là "rừng", "Nokor" hay "Nagara" là "thị trấn". Đây là vùng mà chúa Nguyễn đă mượn làm nơi thu thuế.

Theo tiến tŕnh của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "g̣n".

Dinh Nô-Rô-Đôm

 

Bến Củi


Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các ḍng sông: Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đ́nh, Bến Tranh, Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Củi.

Bến Ván đă được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đă đổi ra Mễ Tân. Bến Thành nay vẫn lưu tên ở chợ Bến Thành. Bến Củi có thể đă được đổi ra Sài Tân, Sài Ngạn do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi chữ bến (bờ) là ngạn. Chữ Sài Ngạn có lẽ sau này được đọc thành Sài G̣n.

(Sưu Tầm)

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18