Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
ĐỊA DANH DU LỊCH LẠNG SƠN - CÁC ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH LẠNG SƠN
ĐỀN TAM GIÁO - ĐỘNG NHỊ THANH - LẠNG SƠN

Đền Tam Giáo - Động Nhị Thanh: hay c̣n gọi là chùa Tam Giáo cùng với động Nhị Thanh là một trong tám cảnh đẹp của xứ Lạng. Theo tài liệu ghi lại th́ đền do Ngô Th́ Sĩ - quan đốc trấn Lạng Sơn dựng để thờ cả ba vị Khổng Tử (Nho giáo), Phật Thích Ca (Phật giáo) và Lăo Tử (Đạo giáo).
Vào tháng 5 năm 1779 ông đă thuê thợ khởi công xây dựng tôn tạo khu động. Động bên trái cao, thế đất tốt hơn làm đền Tam Giáo Động Nhị Thanh ở bên dưới chùa là một hang đá tự nhiên từ cửa trước ra cửa sau dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp tự hiên kỳ vĩ. Phía bên tả động tạc h́nh h́nh rồng, phía trên hữu động tạc h́nh hổ - cách bài trí ảnh hưởng tư tưởng Đạo Giáo "Tả thanh long, hữu bạch hổ" tương ứng với cḥm sao ở phía đông và phía tây. Đối diện cửa hang phía trên cao nhất, Ngô Th́ Sĩ cho tạc tượng của ḿnh vào đá, bức tượng sao này được đánh giá là một trong những tác phẩm đạt giá trị cao về mĩ thuật lúc bấy giờ. Bên trong khu di tích này c̣n có hai mươi văn bia tạc trực tiếp trên vách đá ghi lại nhiều tư liệu quư và c̣n là lưu bút của các danh nho đương thời.
Hàng năm vào ngày 15-17 tháng giêng âm lịch nhân dân quanh vùng lại nô nức về đền trẩy hội tưởng nhớ Ngô Th́ Sĩ, một danh nhân văn hóa đă có công xây dựng phát triển trấn Lạng Sơn.


ĐƯỜNG HÀ NỘI - LẠNG SƠN

Đường Hà Nội - Lạng Sơn: Có lẽ không có con đường nào gợi ta nhiều cảm hứng lịch sử như con đường này. Đây là con đường ghi dấu nhiều đau khổ nhưng cũng vinh quang của dân tộc. Đây là nơi mà Nguyễn Trăi gạt lệ tiễn cha rồi quay về nuôi chí lớn phục thù. Là con đường mà bao sứ thần của ta ra đi rồi không bao giờ trở về, thà rằng bị chém đầu chứ không để bọn “Thiên Triều” làm nhục quốc thể. Ta đi ngang qua vùng Kinh Bắc xưa – đất dựng nghiệp của nhà Lư xưa trải rộng những cánh đồng lúa mượt mà xanh mát như những làn điệu dân ca quyến rủ. Vượt qua ḍng dông Như Nguyệt vang dội chiến công mà ḷng bồi hồi xúc động như c̣n nghe vang vọng đâu đây lời thơ sảng khoái “ Nam Quốc Sơn Hà” của danh tướng Lư Thường Kiệt. Kia là Ai Chi Lăng với ngọn núi Mă Yên trơ gan cùng Tuế Nguyệt nơi tướng giặc Liễu Thăng bị chém rụng đầu. Đây là đường số 4 với những cái tên lịch sử Thích Khê, Na Sầm gợi ta nhớ những trận đánh thắng vẻ vang những binh đoàn thiện chiến của quân xâm lược Pháp trong “ chiến dịch biên giới” 1950. Những rừng lau xào xạc trên đồi Đông Khê như th́ thầm kể lại với ta h́nh ảnh Bác Hồ kính yêu ngồi đây theo dơi trận địa. Những tên sông tên núi ở cửa ngơ tổ quốc này không chỉ ghi chứng tích mà c̣n nói lên tấm ḷng chung thủy của con người : nàng Tô Thị một dạ đợi chồng, ngày này leo lên núi ngóng trông măi cho đến khi hoá đá. Đă từ lâu mảnh đất xanh tươi trù phú và phong cảnh núi sông xinh đẹp hữu t́nh ở đây đă thôi thúc con người miền xuôi lên lập nghiệp như những câu ca dao đă gọi :

“Đồng Đăng có chợ Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bơ công vác mẹ sinh thành nên em”


VIỆT NAM - TRUNG QUỐC:
Từ 13/2/1996, Liên hiệp đường sắt Khu vực 1 thường xuyên tổ chức các đoàn tàu Liên vận từ Hà Nội đến Bắc Kinh vào thứ tư và thứ sáu hàng tuần. Mỗi đầu tàu Tiệp Khắc cũ kéo một đoàn gồm 4 toa kèm một kíp lái tàu, phục vụ, nhưng chỉ chở 6 -15 khách mỗi chuyến, c̣n hàng hóa Trung Quốc sang Việt Nam chủ yếu qua các cửa khẩu tiểu ngạch, nên chỉ chiếm khoáng 2 toa. Khách đi tàu Hà Nội — Lạng Sơn không đi tàu liên vận v́ họ không đi thẳng một mạch đến Đồng Đăng làm ǵ, nên họ chỉ đi tàu chợ, c̣n cán bộ đi công tác lại không thích phải đi đêm. Việc thông tàu liên vận v́ thế có ư nghĩa chính trị hơn là ư nghĩa kinh tế, đang là nỗi lo của ngành đường sắt. Khả năng tăng số khách đi từ Hà Nội — Bắc Kinh gặp nhiều khó khăn. Liên hiệp đường sắt khu vực I đă hướng hoạt động của ḿnh về Phía tây nhằm khai thác tuyến đường sắt Hải Pḥng — Lào Cai — Sơn Yên — Côn Minh, hiện nay đang chở hàng hoá theo hiệp định đường sắt giữa hai nước.
Vùng Tây Nam Trung Quốc có 230 triệu dân, rất cần con đường ngắn nhất để ra biển. Yêu cầu vận chuyển hàng quá cảnh qua cảng Hải Pḥng để đến một nước thứ ba là rất lớn. Tàu rộng 1 m lại có thể chạy thẳng từ Côn Minh đến Hà Khẩu (486 km) rồi chạy tiếp Hà Khẩu — Hải Pḥng (400 km) khi qua biên giới chỉ cần thay đầu máy, thay trưởng tàu an ninh. Tuy nhiên năng lực vận chuyển của ngành đường sắt Việt Nam ở tuyến đường này chỉ khai thác tối đa 1 triệu tấn/ năm, riêng việc chuyển apatit từ Lào Cai đă chiếm 600.000 tấn/năm, nên tuyến đường chỉ có thể đảm nhận 400.00 tấn/năm trong khi phía Trung Quốc yêu cầu từ 3 — 4 triệu tấn/ năm.
Trong hoạt động giao thông vận tải quốc tế bằng đường sắt, 21h30 ngày 18/4/1997, đoàn tàu liên vận quốc tế Hà Nội — Côn Minh (Trung Quốc) đă khởi hành tại ga Hà Nội, chính thức khai thông thêm một chuyến tàu trên đường sắt Việt — Trung. Bên cạnh đó c̣n hai tuyến đường sắt Việt Nam — Trung Quốc khác là Đồng Đăng ( Việt Nam) — Bằng Tường (Trung Quốc) và Lào Cai ( Việt Nam) — Sơn Yên (Trung Quốc).
Tàu khách chạy tuyến Hà Nội — Côn Minh sẽ có 2 đôi tàu/ tuần. Đây là chuyến tày khách đầu tiên của đường sắt Việt Nam đi thẳng qua Côn Minh, không phải chuyển khách qua các ga biên giới. Các ga đỗ có nhận khách Lào Cai ( Việt Nam), Hà Khẩu, Khai Viễn, Nghị Lượng với chiều dài tuyến đường 765 km. Ngành đường sắt hai nước lấy đồng Fran Thụy Sĩ làm trung gian để thanh toán.
Hành tŕnh Hà Nội — Côn Minh sẽ thu hút nhiều du khách tham quan, du lịch đến vùng đất phía Tây Nam Trung Quốc đầy điển tích.


CỬA KHẨU TÂN THANH - LẠNG SƠN

Cửa khẩu Tân Thanh Lạng Sơn: Từ thành phố Bắc Giang đến địa phận Lạng Sơn chỉ mất chưa đầy 2 giờ xe chạy. Gần đến thị trấn Đồng Đăng, con đường chia làm 2 ngả: một lên cửa khẩu Đồng Đăng và cửa khẩu Hữu Nghị, một lên chợ biên giới Tân Thanh. Cả hai ngả đều đang được mở rộng và gia cố mặt đường theo công nghệ mới.
Ở cửa khẩu Hữu Nghị thường xuyên có hàng trăm chiếc xe mang biển kiểm soát Việt Nam và Trung Quốc làm thủ tục giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới. Hàng nhập vào Việt Nam chủ yếu là máy móc thiết bị, phụ tùng linh kiện, hóa chất phục vụ cho công nghiệp và giao thông vận tải. Hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc - một thị trường rộng lớn gần gũi và tương đối dễ tính, phù hợp với khả năng sản xuất và chế biến của ta, là nông sản, khoáng sản và nguyên liệu cho công nghiệp. Do những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, lượng nông sản và hải sản của Việt Nam xuất khẩu qua cửa khẩu Lạng Sơn tăng lên khá nhiều.
Đến Tân Thanh - khu chợ lớn nhất trong các chợ biên giới ở Lạng Sơn mới thấy được tầm quan trọng và lợi thế của loại chợ đặc biệt này. So với các cửa khẩu, hàng hóa ở đây được đưa ra gần đường biên hơn, người dân ở các địa phương lân cận, dù là của Việt Nam hay của Trung Quốc, đều được tự do đi lại, mua bán, nhiều khi không cần xuất tŕnh thẻ căn cước v́ "họ là người quen!". Rất dễ bắt gặp ở đây những h́nh ảnh hữu hảo, thân thiện: anh lính biên pḥng niềm nở đón tiếp người dân từ bên kia biên giới, hoặc những người dân hai quốc gia gặp nhau tay bắt mặt mừng.
Khu chợ Tân Thanh của Việt Nam (đối diện với khu chợ P̣-chài của Trung Quốc) mới được đưa vào sử dụng đầu năm 2000 khá đồ sộ và hiện đại. Các cửa khẩu và chợ biên giới ở đây đáp ứng rất nhanh và hiệu quả sự điều ḥa cung cấp hàng hóa góp phần điều tiết sản xuất, tiêu dùng và cải thiện đời sống nhân dân, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt các tỉnh biên cương theo chiều hướng tốt đẹp.
Tất cả những thuận lợi đó đang tạo nên sức mạnh để Lạng Sơn vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới - thiên niên kỷ của những đổi thay kỳ diệu, vững vàng


KHU DU LỊCH SINH THÁI SUỐI MỠ - LẠNG SƠN

Suối Mỡ là tên một con suối chảy quanh co trong thung lũng núi Huyền Đinh địa phận xă Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, Bắc Giang. Quanh co theo triền núi, suối tạo ra vô số thác nước lớn, nhỏ tung bọt trắng xoá và nhiều bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Dọc đôi bờ suối là cụm ba đền Hạ, đền Trung, đền Thượng thờ Quế Mị Nương con gái thứ mười của vua Hùng Đinh Vương. Theo truyền thuyết bà là người có công giúp dân chống hạn cho cả vùng Lục Nam. Chính nơi đây, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đă cùng các tướng lĩnh thân tín lập đại bản doanh để chặn đứng mũi tiến quân của bọn xâm lược Nguyên Mông từ Ải Chi Lăng, kéo về đánh chiếm Vạn Kiếp để từ đó tiến về kinh thành Thăng Long. Để ghi nhớ chiến công hiển hách này, người dân đă lập đền Trần tưởng nhớ ông , tại đây hiện c̣n khu di tích 3 dinh, 7 nền, băi Quần Ngựa, đấu đong quân.

Phong cảnh hữu t́nh gắn với những dấu tích xưa cũ hàng ngàn năm lịch sử, Suối Mỡ đă cuốn hút hàng vạn du khách tới tham quan, làm lễ dâng hương vào độ xuân về.


CHỢ ĐÔNG KINH - LẠNG SƠN

Chợ Đông Kinh Lạng Sơn: mới được xây dựng trong thời gian gần đây nhưng đă chứng tỏ được vị trí quan trọng của một chợ đầu mối. Vào các ngày thứ bảy chủ nhật hàng tuần, chợ thu hút hàng ngh́n lượt người tới thăm quan và mua sắm.
Những mặt hàng bày bán ở đây chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng vẫn hấp dẫn được người mua nhờ sự đa dạng về màu sắc và chủng loại. Hầu như tất cả các du khách xác định rằng họ lên đây không v́ mục đích mua sắm nhưng bị vẻ sầm uất của khu chợ "dụ dỗ" nên cũng phải "móc ví" ra khá nhiều lần. Những mặt hàng được ưa chuộng là đồ điện tử, điện thoại di động, điện thoại cố định... Vẫn biết hàng không tốt, giá "hơi" rẻ nhưng cả người mua và người bán nơi đây đều có vẻ thân thiện với nhau hơn trong lời nói tiếng cười.


BẮC LỆ - LẠNG SƠN

Bắc Lệ Lạng Sơn: là một ngôi đền cổ thuộc xă Tân Thành, huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn. Đền nằm trên đồi cao, dưới bóng những cây cổ thụ hàng trăm tuổi. Không ai biết rơ đền xây dựng vào thời gian nào mà chỉ căn cứ vào văn bia năm 1919 rằng trước đó đền là một am nhỏ thường hay bị hỏa hoạn. Được sự cúng tiến của một mạnh thường quân người Hải Pḥng, đền Bắc Lệ được xây dựng thành một ngôi nhà ba gian theo phong cách nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc. Sau này qua nhiều lần tu bổ nhưng ngôi đền vẫn giữ được dáng vẻ cổ truyền kết hợp với các yếu tố hiện đại cùng nhiều di vật cổ: mười chín bức tượng lớn nhỏ làm bằng gỗ mít, hoành phi câu đối chạm trổ tinh tế... Đền thờ Bà Chúa Thượng Ngàn (nữ thần cung cấp ban phát nguồn của cải nơi núi rừng cho con người) - một trong ba vị Mẫu được thờ phụng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt và Chầu Bé là một nhân vật có thật người vùng Bắc Lệ, theo những người dân trong vùng kể lại th́ Chầu Bé có thể thay mặt cho Mẫu thực hiện những lời nguyện xin của người dân. Vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán và ngày 20/9 đền lại rộn ràng lễ hội cúng Mẫu với nhiều nghi thức hầu bóng, lên giá đồng ( một h́nh thức diễn xướng tâm linh, người diễn hóa thân thành vai các vị thần thánh làm những động tác múa đao kiếm, múa hoa, chèo đ̣...).


BA SƠN - LẠNG SƠN

Ba Sơn Lạng Sơn: Ấn tượng về thị trấn Ba Sơn (cách TP Lạng Sơn 34 km thuộc khu Thạch Khuyên, xă Xuất Lễ, huyện Cao Lộc) là những ngôi nhà tŕnh tường, mùa đông ấm, mùa hè mát, nằm sát nhau với những bờ rào đá khoe sắc hoa xương rồng.
Nhưng đặc biệt hơn cả là khi du khách gặp các thiếu nữ Nùng Phàn Śnh với mái tóc hỉ nhi trong những bộ trang phục dân tộc từ khắp các sườn núi cao vào thị trấn dịp cuối tuần hay những ngày lễ, tết hoặc chính hội (6.2 âm lịch) - cũng là ngày kỷ niệm du kích Ba Sơn chiến thắng thực dân Pháp năm xưa.
Từ Hà Nội, du khách có thể đi tàu hoả hoặc ôtô lên TP.Lạng Sơn. Ba Sơn, một vùng đất có địa h́nh chủ yếu là đồi núi đá ong, chỉ có người dân tộc thiểu số Nùng Phàn Śnh, Dao, Tày và một ít người Kinh sinh sống. Tại đây, phong cảnh mang vẻ đẹp hoang sơ. Những phong tục, tập quán vẫn c̣n nguyên vẹn. Thị trấn Ba Sơn tuyệt nhiên không có khách sạn hay nhà nghỉ. Từ TP Lạng Sơn, du khách bắt xe ôm (35.000-40.000đồng/người) hay đi bằng ôtô (15.000đồng/người) để đến Ba Sơn. Tại đây, du khách không nên quá băn khoăn về chỗ nghỉ, bởi những người dân tộc ở thị trấn sẵn sàng đón bạn về nhà ḿnh và chiêu đăi như thượng khách mà không thu bất cứ một khoản tiền nào (nếu bạn muốn cảm ơn chủ nhà cũng phải thật khéo kẻo họ tự ái).
Chúng tôi vào một gia đ́nh người Tày ở ngay thị trấn gửi hành lư và nghỉ qua đêm. Chủ nhà giục chúng tôi dạo quanh thị trấn để ngắm Ba Sơn lúc chiều buông trong mây sa và không quên "tḥng" thêm một câu: "Về sớm để c̣n nhẩm lẩu!". Nhẩm lẩu, theo tiếng địa phương là uống rượu và giao lưu. Khi trở về, khách đă thấy rượu, thịt lợn quay được chủ nhà dọn sẵn. Khi đă chếnh choáng hơi men cũng là lúc những câu hát sli (tựa như quan họ Bắc Ninh) cất lên t́nh tứ.
Ngoài thị trấn, thấp thoáng bóng các chàng trai và thiếu nữ người dân tộc vận những trang phục truyền thống đẹp. Họ xúm quanh những bàn nhẩm lẩu, tṛ chuyện hoặc im lặng t́m ư trung nhân cho ḿnh. Trong khi các chàng trai say sưa hát những câu t́nh phô bày tài nghệ, th́ các cô gái sẽ ngồi xúm lại, ngầm quan sát chàng trai nào hát hay, nói chuyện có duyên... họ sẽ mời nhẩm lẩu rồi tặng chàng đó chiếc áo thổ cẩm do họ tự may.
Nếu chàng trai nào khoác nhiều áo mới nghĩa là người đó có duyên, được nhiều cô gái để ư. Chiếc áo giống như vật làm tin. Đáp lại, chàng trai sẽ tặng cô gái chiếc thước đo để may áo hoặc... đ̣n gánh. Những món quà giản dị nhưng lại nói lên rất nhiều điều, được ngầm hiểu thay cho lời hẹn của đôi lứa. Riêng với người Dao, khi chàng trai thích một cô gái, sẽ t́m mọi cách kéo yếm của cô đó lại. Nếu cô gái để yên cho chàng trai kéo đi có nghĩa là đồng ư; ngược lại, nếu không ưng, cô sẽ bỏ chạy.
Nhưng chàng trai không v́ thế mà buồn và sau đó, lại đi t́m cách kéo yếm của một cô gái khác. Những nét sinh hoạt dân dă như thế thực thú vị.
Những ngày sống ở Ba Sơn, du khách như bị níu chân bởi luôn chếnh choáng trong hương rượu Mẫu Sơn và các câu sli t́nh tứ da diết cùng h́nh ảnh những thiếu nữ Nùng Phàn Śnh với mái tóc hỉ nhi - một kiểu tóc đặc trưng như ngầm "mách" rằng "em chưa có ai". Nếu bạn muốn du ngoạn Ba Sơn, ở đây có anh Hoàng Văn Huynh (hiệu trưởng trường TH Ba Sơn, một hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ) sẵn sàng giúp đỡ và bố trí chỗ nghỉ miễn phí cho bạn. Chỉ cần bấm số điện thoại: 025 863215, bạn sẽ có một dịp nhẩm lẩu tuyệt vời... Ngược ḍng lịch sử xa xăm, con người c̣n để lại ở Chi Lăng những vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn - Mai Pha nổi tiếng với những hang động đẹp như trong huyền thoại và những ŕu đá, mảnh gốm... minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của con người sinh sống ở nước ta.
Vào những năm trước và sau công nguyên, ải Chi Lăng đă gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ XIV, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đă hạ một câu thơ bất hủ: "Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời".
Năm 1077, phụ quốc Thái uư Lư Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp pḥ mă Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lư và Giáp Khẩu (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đă góp sức đánh tan bọn xâm lược Tống lần thứ hai.
Thế kỷ XIII, cả thế giới kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi cánh quân Nguyên qua ải Chi Lăng đă bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đă thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mă tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng...
Thế kỷ XV, ải Chi Lăng lại ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng - chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ XVIII, dưới thời Hoàng đế Quang Trung - một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh... Vào các thế kỷ XIX và XX, ải Chi Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta.
Ải Chi Lăng đă được nhiều quan khách quốc tế, các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh, nhà sử học, khách du lịch... đến thăm với một sự trân trọng đặc biệt. Slôvắcxốc - nhà dân tộc học nổi tiếng Tiệp Khắc trước đây trong chuyến đi thăm ải Chi Lăng đă từng đánh giá: "Có lẽ đây là chiến luỹ h́nh thang độc nhất trên thế giới, nó thể hiện đầu óc thông minh và tài trí quân sự tuyệt vời của một dân tộc luôn phải chống trả với một đội quân xâm lược mạnh hơn ḿnh gấp trăm lần trong quá tŕnh lâu dài dựng nước và giữ nước. Thể hiện một tầm nh́n chiến lược nổi tiếng: "Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh".

 

ẢI CHI LĂNG - LẠNG SƠN

Ải Chi Lăng Lạng Sơn - vùng đất địa linh nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải phía Bắc của Tổ quốc. Với địa thế hiểm yếu, ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của kinh thành Thăng Long trong việc chặn đứng các cuộc viễn chinh khét tiếng từ phương Bắc tràn sang. Chi Lăng là ải có quy mô hoành tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dăy núi đá Kai Kinh ở phía Tây và dăy núi Bảo Đài ở phía Đông. Hai đầu ải có những ngọn núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như Lư Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Pḥ mă Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Đại Huề...


THÀNH NHÀ MẠC - LẠNG SƠN

Thành nhà Mạc: Nằm trong khu vực phường Tam Thanh thị xă Lạng Sơn, dấu tích hiện nay c̣n lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi.
Đây là di tích kiến trúc quân sự phản ánh thời kỳ phong kiến Việt Nam. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc đă được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ khách du lịch tham quan.
Thành nhà Mạc là dấu tích gồm hai đoạn trường thành xây bằng đá thuộc phường Tam Thanh thị xă Lạng Sơn. Theo những tư liệu c̣n lại th́ thành là một căn cứ quân sự hiểm yếu chắn con đường độc đạo nối từ Ải bắc xuống phía nam đo Mạc Kính Cung xây dựng vào thế kỷ XVI làm căn cứ chống lại Lê-Trịnh. Giữa hai hẻm núi hùng vĩ, đứng từ điểm cao của thành có thể quan sát cả một vùng rộng lớn hiểm trở, cái tự nhiên của địa h́nh, của những bức tường thành và những lỗ châu mai đă tạo cho thành cái thế "một người địch muôn người". Hiểm trở uy nghi đă tạo thế cho nhà Mạc trấn giữ biên ải suốt gần một thế kỷ. Tuy quy mô thành không lớn lắm nhưnng đây là chứng tích một thời "huynh đệ tương tàn" giữa các triều đại phong kiến Việt Nam.
Cũng có giả thuyết cho rằng đây không phải là thành mà là "đấu đong quân". Theo giả thuyết này th́ quân lính được đưa về đây, cứ đầy ḷng "đấu" th́ sẽ biết số quân hiện là bao nhiêu.


NÚI NÀNG TÔ THỊ - LẠNG SƠN

Núi Tô Thị, hay c̣n gọi là núi Vọng Phu, nằm về phía Tây Bắc núi Tam Thanh, thuộc phường Tam Thanh, TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Trên đỉnh núi có tảng đá tự nhiên giống h́nh người phụ nữ bồng con nh́n về phương xa, gọi là Nàng Tô Thị.
Nếu theo nội dung câu ca dao này, th́ Đồng Đăng xưa có lẽ chỉ một vùng rộng lớn bao gồm cả TP Lạng Sơn bây giờ. Ngày nay, Đồng Đăng là thị trấn biên cương của huyện Cao Lộc.
Truyền thuyết về nàng Tô Thị:
Ngày xưa, ở thị trấn Kinh Bắc có một người đàn bà góa chồng từ sớm, ngày ngày đi ṃ cua, bắt ốc để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai kiềm chế nổi.
Một hôm, Tô Văn chơi ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngă vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy thẳng một mạch ra đường không c̣n dám ngoái cổ lại.
May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. Đến khi người mẹ trở về th́ con gái đă ngồi dậy được.
Nhưng c̣n Tô Văn th́ biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, t́m khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một ḿnh. Đứa con gái nhỏ được hai vợ chồng người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm ăn nên đem Tô Thị đi theo.
Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ư. Dành dụm được ít vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được mở một cửa hàng buôn bán, hai vợ chồng người hàng xóm thấy con ḿnh đă trưởng thành nên đều ưng thuận. Học được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng Cưa tại chợ Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách th́ thật là khéo chiều, nhưng nàng rất đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể.
Thấm thoát Tô Thị đă hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.
Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ cho trọ rộng răi, chàng thanh niên liền t́m đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô bán hàng cũng thật tươi gịn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước c̣n mến, sau yêu nhau. Hai người lấy nhau được hơn một năm th́ Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối t́nh càng khăng khít.
Một hôm người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo to, anh nói:
- Đầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.
- Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? - Tô Thị hỏi.
- Có xấu ǵ đâu! Tóc che, có ai mà biết ! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế ?
Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những ǵ xảy ra hồi c̣n bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn đấy cho đến bây giờ. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn.
Biết bao đau thương buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm: "sao ḿnh không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi ḿnh đă lấy nhầm em ruột rồi". Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đă lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đă đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lư. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đ́nh ở miền xuôi chắc không c̣n một ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không c̣n nghĩ về đó làm ǵ.
Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ư đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên, không biết chồng ḿnh đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho một người em gái ḿnh c̣n non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ư hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái ḿnh trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm ǵ chả lấy được một người chồng khác. Văn nghĩ thế, rồi anh t́m cách để đi.
Giữa lúc tâm trạng Văn như thế th́ có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Măi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với vợ:
Anh đă đăng lính rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn. Em ở nhà nuôi con, c̣n về phần em, em cứ định liệu.
Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng ḿnh lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc măi không nói nửa lời. C̣n Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc ḿnh đi như vậy là giải thoát.
Từ ngày chồng đi rồi. Tô Thị chẳng thiết ǵ đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được b́nh yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con c̣n thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân nên t́m cách khất lần. Nhưng khất lần măi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lăo một kỳ hạn, để sau này t́m mưu kế khác. " Biết đâu đến ngày ấy chồng ḿnh lại chả về!", nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên Chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót nh́n về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lóe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nh́n về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.
Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân xung quanh khi nh́n lên đỉnh núi th́ thấy nàng Tô Thị bế con đă hóa đá từ bao giờ. Ngày nay ḥn đá ấy vẫn c̣n ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời. Vẫn c̣n đó câu ca dao xưa :

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.


Nàng Tô Thị từ lâu đă trở thành thắng cảnh nổi tiếng vào bậc nhất ở Lạng Sơn, h́nh ảnh người đàn bà hoá đá đó đă đi vào văn hoá người Việt với một sự cảm thông và ngưỡng mộ sâu sắc. Điều này khiến cho bất cứ ai khi đặt chân đến xứ Lạng, đều mong muốn được một lần chiêm ngưỡng thắng cảnh này.
Tiếc thay, trải qua bao năm tháng, do tác động của thiên nhiên và sự khai thác đá bừa băi của con người, di tích này đă bị hủy hoại. Tỉnh Lạng Sơn đă cho dựng lại như nguyên bản để ǵn giữ một di tích đă đi vào t́nh cảm của người dân Việt Nam.

Bài Đọc Thêm:

HUYỀN THOẠI NÀNG TÔ THỊ

Ḥn Vọng Phu


HÀ VINH


Lạng Sơn cách thủ đô Hà Nội 154km về phía Bắc là một vùng phong cảnh nên thơ của Tổ Quốc, nơi có tên trên bản đồ Việt Nam từ năm 981 và là nơi ghi dấu nhiều chiến tích anh hùng trong suốt nhiều thời kỳ giữ nước.
Từ thị xă Lạng Sơn qua khỏi sông Kỳ Cùng là đă có thể nh́n thấy bóng dáng nàng Tô Thị, một phiến đá thiên tạo trên dăy núi đá vôi ở phía Bắc, trong giống người đàn bà ôm con ngóng trông về một phương trời xa xăm nào đó. Không biết từ bao giờ, dân gian ta gọi đó là núi Vọng Phu (trông chồng) với nhiều câu chuyện đầy huyền thoại và lăng mạn. Trên đất nước ta, trí tưởng tượng phong phú của người dân đă đặt cho nhiều ngọn núi có cái tên vọng phu, như ở B́nh Định, ở Khánh Ḥa chẳng hạn. Nhưng không đâu bằng Lạng Sơn, nàng Tô Thị với núi vọng Phu đă trở thành một biểu tượng của ḷng sắt son, đă là nguồn thi hứng của bao danh nhân nho sĩ lỗi lạc.

Nguyễn Du đă cảm xúc khi đứng trước nàng Tô Thị:

"Thạch da, nhân da, bỉ hà nhân.
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp điều vô vân vũ mộng
Nhật trinh lư đắc cổ kim thân"

(Đá chăng? Người chăng? Đó là ai?
Đứng sững đầu non ngh́n năm rồi
Muôn kiếp mây mưa không vướng mộng
Ḷng son nay trước trọn bao đời)


Nàng Tô Thị, núi Vọng Phu được dân gian truyền lại qua một huyền thoại đầy tính thi ca. Tục truyền rằng, nơi đây ngày xưa có một cô gái nhan sắc mặn mà. Nàng lấy chồng sinh được đứa con trai. Một hôm người chồng ra đi rồi măi măi không về. Chiều chiều nàng Tô Thị bồng con lên đỉnh núi mong ngóng. Trải qua bao năm dăi dầu mưa nắng nàng mỏi ṃn và rồi hóa đá.

Trong dân gian có nhiều câu chuyện giải thích thêm lư do tại sao người chồng của nàng Tô Thị bỏ đi măi không về. Có truyền thuyết nói rằng chồng nàng Tô Thị là Đậu Thao làm lính đời xưa, đi chống phong kiến Phương Bắc và không c̣n có ngày trở lại. Đó là h́nh ảnh của người chinh phụ đầy tính hào hùng và lăng mạn.

Thế nhưng cũng có huyền thoại truyền tụng một câu chuyện đầy kịch tính. Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa, một gia đ́nh nọ sinh được hai anh em một trai một gái. Một hôm thằng anh nghịch ngợm kê một lóng mía trên đầu em gái để róc vỏ. Lưỡi dao bén phạm vào đầu làm đứa em bất tỉnh. Chủ nhỏ sợ cha mẹ rầy đă bỏ xứ mà đi. Mười lăm năm sau hai anh em gặp nhau như người xa lạ và họ đă kết nghĩa vợ chồng. Một hôm nhân khi âu yếm, người chồng nhận ra trên đầu vợ ḿnh có vết sẹo dài, anh hỏi và nghe vợ kể lại lai lịch của ḿnh theo lời mẹ cha. Anh đau xót cảm thấy đă xúc phạm vào điều thiêng liêng nhất. Thế là không nói một lời anh bỏ nhà ra đi – người vợ ṃn mỏi lên núi chờ chồng và...hóa đá.

Dù chuyện dân gian có thế nào đi nữa, nhưng ít ra câu chuyện về nàng Tô Thị đă nói lên một điều mang tính chất phẩm giá và ḷng sắt son của người phụ nữ. Phải chăng v́ vậy mà nàng Tô Thị đă đi vào thi cả, đă đi vào tâm hồn của dân tộc, trở thành một biểu tượng cao quư của t́nh nghĩa vợ chồng. Nàng Tô Thị đă sống măi trong ḷng người và núi đá Tô Thị đă được ghi vào sử sách. Thế nhưng bây giờ th́ nàng Tô Thị đă vĩnh biệt chúng ta. Nàng không chết v́ thiên nhiên tàn phá. Trời đất hàng thế kỷ đă khắc họa một sự trung trinh về người phụ nữ trong huyền thoại này. Nàng Tô Thị đă chết v́ sự thô bạo và dốt nát của một số người...

Vào tháng bảy năm 1991, nàng Tô Thị đă bị giật sập và người ta đă đem nàng nung vôi. Chuyện kỳ lạ ở phía bắc con sông Kỳ Cùng xảy ra từ hai ba năm nay. Dư luận và báo chí ở địa phương đă nhiều lần báo động điều này khi một đơn vị khai thác đá vôi lên đây đào bới cả một quần thể thiên nhiên nổi tiếng ở Lạng Sơn. Người dân ở đây ban đầu phàn nàn sau đó là căm phẫn và bây giờ là hối tiếc. Nhưng mọi sự cũng đă rồi.

Điều đáng nói ở đây là việc "hành quyết" nàng Tô Thị hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu nhiên hay do sơ suất.

Khu du tích Nhị Thanh, Tam Thanh và núi Tô Thị cách thị xă Lạng Sơn không bao xa và việc tàn phá di tích này không phải diễn ra trong một ngày một tháng, không phải chỉ là năm bảy người đục đẽo, mà là cả một "đội quân" được tổ chức qui mô. Trên hiện trường ấy, hơn một năm nay đă diễn ra biết bao vụ nổ ḿn, biết bao âm thanh chát chúa, khói bụi th́ mịt mù năm này tháng nọ. Ḷ nung vôi ở cửa động Nhị Thanh gần đó đă tiêu hủy nàng Tô Thị và biết bao nhiêu bài thơ của các bậc danh nhân chí sĩ một thời ghi khắc vào núi đá, hang động.

Ngô Th́ Sĩ (cha của Ngô Th́ Nhiệm), một danh nhân của đời Lê Cảnh Hưng đă ghi vào quần thể văn hóa này một bài thơ nổi tiếng và khắc cả chân dung ḿnh vào một động thạch nhũ:

"Nhân cưỡi lừa chơi chốn động xưa
Dùng dằng bên động cảnh càng ưa
Suối trong đá trắng đường reo gọi
Núi trước nàng Tô dăi nắng mưa
".

Có sống vào thời buổi này chắc chắn Ngô Th́ Sĩ cũng sẽ phải đau ḷng khóc khi phải vĩnh biệt nàng Tô Thị, vĩng biệt nguồn thi hứng dạt dào.

Chung số phận với nàng Tô Thị là núi Tam Thanh với nhiều hang động nối tiếp. Đối diện với núi Vọng Phu, nằm trong dăy núi đá vôi, cách thị xă Lạng Sơn chứng 2km ở phía Tây Bắc, Tam Thanh có ba hang động rất đẹp.

Động Nhất Thanh nhỏ nhất, bên trong đó có thờ Phật và tượng Ngô Th́ Sĩ. Bên động Nhất Thanh là Nhị Thanh không rộng bằng nhưng khá sâu, chiều dài khoảng 500 mét xuyên từ bên này sang bên kia núi. Trước hang có nhiều cây cổ thụ rợp bóng, những cụm phong lan nhiều màu sắc rũ xuống rất dịu dàng. Hang động này có nhiều nhũ đá đủ màu sắc lung linh. Ra khỏi cửa hang Nhị là Tam Thanh, không sâu nhưng cao đến hơn 8 mét với nhiều nhũ đá đẹp. Dưới hang có ḍng suối róc rách, bên trong hang có ngôi chùa cùng tên Tam Thanh là nơi nhiều du khách thường xuyên đến đây viếng cảnh.

Chính tại ngôi chùa này, sau ngày nàng Tô Thị bị nung vôi, cái đứa con của nàng được một bà lăo giữ chùa mang về đây thờ cúng. Bà lăo giữ chùa đă t́m thấy chiếc đầu ấy khi người ta định nung vôi và một sự cảm xúc đầy nhân ái đă khiến bà kính cẩn nhặt lấy mang về thờ. Đây là phần "thân xác" duy nhất của mẹ con nàng Tô Thị c̣n được giữ lại, không phải do ngành văn hóa hay cơ quan bảo vệ di tích mà do một bà lăo tốt bụng và nhận chân được cái giá trị thiêng liêng của cuộc sống này: đó không phải là đồng tiền kiếm được mà là t́nh người.

C̣n ngành văn hóa thông tin th́ sao? Nhà của đồng chí Quyền giám đốc Sở Văn hóa Thông Tin Lạng Sơn ở P̣ Xoài, cách nàng Tô Thị và các khu di tích hang động chưa đầy 1km. Bộ Văn Hóa Thông Tin và Thể Thao cách Nàng Tô Thị và núi Tam Thanh 154km(Ư nói ở Hà Nội) và chẳng phải đă không nghe được những lời than văn về đợt tàn phá di tích này, bởi trong thời đại hiện nay các phương tiện khoa học kỹ thuật đă rút ngắn chiều dài khọng gian lẫn khoảng cách thời gian.

Phải chăng, nàng Tô Thị không thể khóc than khi bị người ta đem nung vôi v́ nàng đă hóa đá. Cho nên không ai trong số những người trách nhiệm nhận ra lời kêu cứu bi thảm của một người vợ thủ tiết chờ chồng?

Phải chăng chỉ có những than văn nói lên lời mới đánh thức được lương tri?
Bây giờ th́ nàng Tô Thị đă vĩnh biệt chúng ta. Và rồi đây, dù đời sau có xây dựng bao nhiêu nàng Tô Thị đi nữa cũng không thể nào bù đắp được một món quà tặng đầy ư nghĩa mà thiên nhiên đă ban cho chúng ta.

Kết thúc bài viết, chúng tôi xin ghi lại xúc cảm của nhạc sĩ Lê Thương, người đă làm tôn vinh ḷng sắt son của người chinh phụ trong trường ca Ḥn Vọng Phu nổi tiếng được anh sáng tác cách đây gần nửa thế kỷ, lấy nguồn cảm hứng âm nhạc từ sự tích nàng Tô Thị.

"Tôi vô cùng thương tiếc khi biết người ta giết nàng Tô Thị: Đó là sự mất mát t́nh cảm không chỉ của riêng tôi mà c̣n là sự tiêu hủy những nguồn thi hứng, nhạc cảm: một sự xúc phạm thiên nhiên thô bạo. Lợi lộc có đáng bao nhiêu đâu mà người ta phải làm một việc sai lầm như thế".

Dù sao th́ nàng Tô Thị cũng đă vĩnh biệt chúng ta!

22.9.1991
(Trích Khởi Hành)

 


PHỐ CHỢ KỲ LỪA - LẠNG SƠN

Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn là nơi mua bán trao đổi hàng hoá giữa các vùng, miền, trong cả nước cùng với các hoạt động văn hoá mang bản sắc dân tộc của Lạng Sơn Chợ Kỳ lừa mỗi tháng họp 6 phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch, có hàng hoá sản vật của hầu hết các tỉnh . Người đến chợ có khi không cốt để mua bán mà chỉ để thăm hỏi, bàn chuyện làm ăn, Thanh niên nam nữ các dân tộc đến chợ để gặp ban thân, t́m bạn đời qua các lời ca giao duyên sli, lượn, t́m đến những niềm đồng cảm bao quanh. Tại chợ, cùng với những màu sắc đa dạng của những hàng thổ cẩm, trang phục,c̣n có các món ăn đậm đà hương vị miền núi Xứ Lạng. Mỗi năm Lạng Sơn có Hội chợ Kỳ lừa, kéo dài từ 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch, là nét sinh hoạt văn hoá cổ truyền đậm đà bản sác dân tộc. Chợ Kỳ lừa ngày nay đă được tôn tạo và mở cửa cả ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương, cùng với cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến Lạng Sơn


Nguồn: saigontoserco

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18