Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Suy nghĩ về vua Rộc nước Nam Giao .

 

Ở Thái bình có đền vua Rộc , trong đền có thần phả ghi lại tên nước Việt  thời ấy là Nam Giao .
Vua Rộc là vua nào trong Việt sử hay truyền thuyết lịch sử và nước Nam Giao là nước nào ?
Về tên vua Rộc : Rộc↔Rục ↔Rạc là âm tiếng Việt cổ nay  biến  thành Lộc – Lục – Lạc .
 Lộc tục vua phương Nam trong truyền thuyết Việt ;
Lục là chỉ Hùng vương thứ 6   hiện có mộ nơi đền Hùng linh thiêng
 Lạc ↔Nác – nước chỉ ngài là vua phương Nước ; nước là Dịch tượng của phương Nam .
Tóm lại : vua Rộc đồng nghĩa với Lạc vương , vua phương Nam phải chăng là Lộc tục trong truyền thuyết ?
 Theo truyền thuyết Lộc tục có tước hiệu là Quang lang (chính xác phải là Quan lang , quan là nom – nhìn tức hướng Nam) cai trị phương Nam  từ năm 2879 trước công nguyên , năm này cũng đúng là năm đế Nghi – Viêm lang lên ngôi hoàng đế kế nghiệp vua cha là đế Minh quốc tổ . (theo tư liệu của ông Nguyễn hồng Sinh).
Nam Giao là địa danh đã nói đến trong kinh Thư , đế Nghiêu …mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao…, theo tôi viết Nam Giao là thiếu , chính xác phải là ‘Nam giao chỉ’ mới đủ nghĩa .
Ta phân biệt : Nam Giao khác với Giao Nam .
Giao Nam là đất Giao chỉ phần phía Nam , đối đẳng có Giao Bắc .
Nam Giao là đất ở phía Nam Giao chỉ (ngoài cõi)  .
Hiểu theo cú pháp tiếng Việt thì Thông tin mang trong cụm từ “Nam Giao – Nam Giao chỉ” hoàn toàn khác với lối hiểu của người Tàu : Nam giao là đất Giao chỉ ở phía Nam (Trung quốc ?). Thử hỏi …Thời Nghiêu Thuấn theo chính sử  Trung quốc chỉ là cái lõm cỏn con ở Sơn tây thì làm gì đã biết đến đất Giao chỉ ở phía Nam của họ ?.
Đế Nghiêu – đế Nghi đã là vua Giao chỉ rồi mới …mệnh Hy thúc trạch Nam giao… ý nghĩa thực sự là Mở rộng đất Giao chỉ về hướng Nam  (xưa nay đã lộn ngược) tức vùng Quảng Tây ngày nay.; chính  như thế mà Tôn Quyền chia Giao chỉ Bộ thành : Giao châu là đất Giao chỉ cũ gồm bắc trung  và Bắc bộ ngày nay ; Quảng châu là Quảng Tây – Quảng Đông  , chữ Quảng động từ có nghĩa là mở rộng ra ý nói Quảng châu là đất mở rộng từ đất gốc là Giao châu ,
Giao là biến âm của ‘giữa’ dùng chỉ nơi mà 2 trục Nam – Bắc và Đông – Tây giao cắt  .
Truyền thuyết lịch sử Việt có chỗ chưa minh bạch khi nói …đế Minh phong cho Đế Nghi là vua phương Bắc lộc Tục Là vua phương Nam , vậy rõ ràng là có 2 nước 2 vua ???, đã như thế sao lại còn có việc …Đế Minh rất yêu thương và có ý truyền ngôi cho Lộc Tục nhưng Lộc tục không dám nhận để sau cùng đế Minh truyền ngôi (gì ?) cho anh là đế Nghi ???.
Truyền thuyết  đã có sự lầm lẫn giữa chức và tước khiến rất lấn cấn  .
Thực ra lịch sử buổi đầu  nước họ Hùng  có 2 giai đoạn :
·                        Giai đoạn 1 thời dựng nước :
Dịch có Thái cực sinh lưỡng Nghi  nên truyền thuyết có vua cha quốc tổ phong cho 2 con tước Viêm lang và Quan lang ý chỉ sự phân cực  đầu Bắc và đầu Nam , đầu Âm – đầu Dương còn  truyền ngôi tức chuyển giao chức vụ thì chỉ có 1 , truyền thuyết chép là truyền cho đế Nghi như thế vẫn chỉ là 1 nước 1 vua  ; nước có 2 miền Bắc và Nam , Viêm  và Quan ;  cổ sử Trung hoa gọi là  ông  Cao Giao và ông Giao Thường (thường ≠cao).
Thời Hùng Vũ – đế Minh – Hoàng đế lập Hữu Hùng quốc thì đất nước có 2 miền , đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh là đầu Bắc , lưu vực sông Đà hay Hắc thủy- Đan thủy là đầu Nam (phương hướng xưa theo Dịch học) , phần Bắc gọi là Đất Đào cũng là đất Cao , Nam là đất Đường hay Thường , đế Nghiêu là ông Giao Thường tước Đường vương (Đường hầu) tức người đứng đầu vùng lưu vực  sông Đà – sông Mờ phía Nam xưa tức cũng là Lạc vương – vua nước – nác – Lạc – rạc – Rộc;  còn cầm đầu phía Bắc xưa là ông Cao Giao. (Có tư liệu viết ông Cao Giao sinh ở Hồng thành ; hồng – đào – Xích  là 1,  liệu có liên quan gì tới dãy Hồng lĩnh ở Hà Tĩnh ?) .
·                        Thời sơ sử mở rộng lãnh thổ ban đầu :
Khi trị vì Đế Nghiêu đã  ….mệnh Hy Thúc trạch Nam giao …(chỉ) tức  là  mở rộng lãnh thổ về hướng Nam (xưa) thu phục miền đất phía nam Giao chỉ  nay là vùng Đông Vân Nam và Lưỡng Quảng  như 2 câu thơ của Phạm sư Mạnh :
Hồng bàng khai tịch Hậu
Nam phục nhất Đường Ngu .
Khi đất Nam Giao đã nhập vào với đất Giao chỉ cũ thì lãnh thổ nước họ Hùng được phân chia lại thành 2 miền :
Miền Bắc của đế Nghi – Viêm lang là Giao chỉ .
Miền Nam của Quan lang – Lộc tục hay Lục tộc là Nam Giao chỉ . Vùng đất  Nam Giao mới thu phục gọi là Nam lĩnh hay lĩnh Nam ban đầu chỉ là  vùng Quảng tây Trung quốc .
Do sai lầm lồng 2 thời kỳ vào làm 1 nên thông tin trong buổi đầu dựng nước  trở nên lủng củng không  hiểu nổi ;  nơi thì bảo đế Nghi làm vua phương Bắc ( truyền thuyết Việt) nơi khác lại cho đế Nghiêu là chúa phương Nam  ( Đường Nghiêu  – cổ sử Trung hoa) , thực rối rắm qúa chừng .
Thực ra Nói phương bắc cũng đúng nếu đặt sự kiện ở sau thời đế Nghi mở nước về phương Nam nhưng  nói đế Nghiêu – Nghi là chúa phương Nam cũng không hề sai nếu đặt  trong buổi đầu dựng nước .
Từ Nghi ở đây chỉ là biến âm của nhì – nhị nghĩa là thứ 2 , đế thứ nhất là Hoàng đế – đế Minh ; đế thứ nhì là Đế Nghiêu – đế Nghi . Quy tắc âm ‘ng’ biến ra ‘n’ chưa thấy nhà ngôn ngữ học nào nói tới  nhưng có thể dẫn chứng …Ngung di không có nghĩa thực ra là Nhung di tức người Di phía đông .v.v.
Tạm thời sau khi đối chiếu 2 nguồn thông tin truyền thuyết Việt và cổ sử Trung hoa  chỉ có thể suy đoán … vua Rộc  là 1 trong 2 vì đế vương cổ đại  :
- Là đế Nghi  tức ông Giao Thường  , ông Giao Thường trong cổ sử Trung hoa là Đế Nghiêu – thường gọi là thời Đường Nghiêu (Đường ↔Thường)  , kinh đô đặt trên đất Giao Nam là Bắc Việt ngày nay .
Hoặc :
- Là đế Thuấn hay ông Diêu trọng hóa vua kế nghiệp đế Nghi , thời Kinh đô Bồ bản đặt trên đất Nam Giao tức Nam Giao Chỉ nay là Quảng Tây .
Ghi hhận : Sử thuyết Hùng việt dựa vào  Hùng vương thập bát chi thế truyền tư liệu lịch sử qúy gía  truyền đời của người Việt cho  Đế Nghi là Hùng Hy vương – Viêm lang , Hy biến âm của  hai -2 – Hời  đồng nghĩa với Nghi – nhì , Viêm là Viêm nhiệt chỉ xứ nóng , chính vì điều này mà  Việt nam có thời xưng là Viêm bang .
Để có thể kết luận rõ ràng dứt khoát về vua Rộc nước Nam Giao  chắc còn phải tìm hiểu và suy nghĩ nhiều lắm …

 

Đế Minh và Hoàng đế…ai là cháu ai ? 
 
Truyền thuyết lập quốc Trung hoa viết  ….
 
Khoảng 5000 năm trước , vào thời thượng cổ , vùng lưu vực sông Hoàng Hà – Trường Giang của Trung Quốc có rất nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống . Theo truyền thuyết , Hoàng Đế là thủ lĩnh của một bộ lạc rất nổi tiếng … Bộ lạc đó xuất hiện sớm nhất ở cạnh vùng Tây Bắc của Sông Cơ thuộc Trung Quốc ngày nay , về sau dời đến Trác Lộc ( vùng Hoài Lai , Trác Lộc tỉnh Hà Bắc ngày nay ) . Khi đấy nổi danh cùng Hoàng Đế c̣n có một thủ lĩnh bộ lạc tên Viêm Đế , họ xuất hiện sớm nhất ờ gần sông Khương – phía Tây Bắc Trung Quốc .
 Vào thời bộ lạc của Hoàng Đế trở nên hùng mạnh , có thủ lĩnh của một tộc người Cửu Lê tên là Si Vưu . Tương truyền ông có 81 anh em , họ khỏe như dă thú , ḿnh đồng da sắt , ăn toàn cát đá , hung tợn vô cùng . Họ c̣n biết chế tạo ra các loại vũ khí như cung , nỏ , đao , kích và thường thống lĩnh bộ lạc của ḿnh đi xâm lược bộ lạc khác .
 Có lần Si Vưu xâm chiếm đất đai của Viêm Đế , nhưng vốn không phải là đối thủ của Si Vưu nên Viêm Đế đă bị đánh bại thảm hại . Không c̣n cách nào khác , Viêm Đế phải chạy đến Trác Lộc nhờ Hoàng Đế giúp đỡ . V́ muốn diệt trừ bộ lạc này nên Hoàng Đế tập hợp các bộ lạc lại , chuẩn bị binh lực quyết chiến với Si Vưu ở cánh đồng hoang Trác Lộc .
 Rất nhiều câu chuyện thần thoại liên quan đến cuộc chiến này được người đời lưu truyền . Tương truyền , Hoàng Đế có huấn luyện những loài dă thú như : gấu , gấu ngựa , t́ hưu , hổ ( một số loài thú chỉ có trong truyền thuyết ) , khi giao chiến ông đă thả chúng ra để bảo vệ ḿnh . Tuy binh hùng sức mạnh , nhưng khi gặp phải quân đội của Hoàng Đế và bầy mănh thú , quân của Si Vưu đă không địch nổi , đành phải t́m đường chạy trốn .
 Hoàng Đế thừa thắng dẫn binh truy kích . Đột nhiên trời đất trở nên u ám , mây gió vần vũ , sấm chớp liên hồi , khiến cho binh lính của Hoàng Đế không thể truy cản . Th́ ra Si Vưu đă mời ” Phong Bá Vũ Sư ” đến trợ chiến . Hoàng Đế cũng không chịu thua , ông vội mời Thiên Nữ giúp ḿnh xua tan mây gió . Trong chớp mắt , mưa ngừng gió tạnh , trời trở nên quang đăng , cuối cùng Si Vưu đă bại trận .
 Sau khi Hoàng Đế đánh bại Si Vưu , các bộ lạc đều rất vui mừng . Với sự ủng hộ của nhiều bộ lạc , Hoàng Đế đă trở thành thủ lĩnh của vùng đất Trung Nguyên .
 Tương truyền vào thời Hoàng Đế , có rất nhiều phát minh ra đời như : xây dựng các công tŕnh , chế tạo xe , thuyền bè , y phục ngũ sắc , v.v .
 Hoàng Đế có một người vợ tên là Luy Tổ, bà cũng tham gia lao động với mọi người . Trước đây tằm vốn sống hoang dă và loài người chưa biết đến ích lợi của nó . Luy Tổ đă dạy các thiếu nữ nuôi tằm , ươm tơ , dệt lụa . Tơ và lụa ra đời từ đó .
 V́ có cống hiến to lớn cho nền văn minh Hoa Hạ , nên người đời sau đă phong Hoàng Đế là vị thủy tổ của tộc người Hoa Hạ và tự xưng ḿnh là con cháu của ông . Do tộc người Viêm Đế và Hoàng Đế vốn gần gũi nhau nên về sau đă hợp thành một , và mọi người cũng cho ḿnh là con cháu của Viêm Hoàng..
 …….
  Truyền thuyết trên nêu ra 2 ý :
 -     Hoàng đế – Viêm đế và Xi vưu là người Cùng thời , thời Trung hoa lập quốc khoảng 5000 năm cách nay .
 -     Địa bàn nguyên thủy của Trung hoa là vùng Tây bắc Trung quốc tức Thiểm tây sau dời sang vùng Hà bắc ngày nay . Nói chung trước sau đều ở  bắc Hoàng hà .
 Điều này liệu có đúng không ?
 Danh xưng Hoàng đế ở đây  là 1 danh từ riêng nghĩa là đế màu vàng không phải hoàng đế danh từ chung đồng nghĩa với từ  vua trong tiếng Việt .
 Vì từ màu vàng này mà nhiều nhà nghiên cứu cả Tàu lẫn ta đang cố đẩy đưa …Hoàng đế – đế màu vàng là vua vùng Hoàng thổ ,  đất màu vàng ở Thiểm tây rìa sa mạc Gobi là có thực nên việc lập quốc của dân tộc Trung hoa khởi ở vùng tây bắc cát bụi mịt mù này xem ra có vẻ là đúng và thực…Hoàng đế đi với hoàng thổ Hoàng hà …xem ra có lý qúa đi chứ ?.
 Nhưng ….cổ thư Trung hoa không phải chỉ nói đến Hoàng đế mà  có đủ cả bộ ‘Ngũ sắc đế’ theo Dịch học là : Thanh đế – Xích đế – Bạch Đế – Hắc đế – Hoàng đế .
 Nếu ‘công thức’ Hoàng đế là vua vùng Hoàng thổ được chấp nhận thì vùng bắc Hoàng hà lấy đâu ra đất cho các vị đế kia …
 -Hắc đế vua vùng đất đen …cũng có thể lắm…đất đen là đất màu mỡ mới hình thành do sự bồi lấp đầm lầy mà thành , loại đất này  trồng trọt rất tốt …
 -Bạch đế là vua đất …bạc màu sinh ra do con người canh tác lâu ngày mà không bồi dưỡng   …. hoặc cũng có thể Bạch đế là vua vùng đất sét trắng tức cao lanh loại đất qúy chuyên dùng làm đồ gốm xứ cao cấp chăng …
 -Xích đế là vua vùng Xích thổ tức đất do phún xuất núi lửa lâu ngày phong hoá mà thành thường gọi là đất đỏ bazan …chắc Xích đế là vua cà phê …
 -Thanh đế ….đến đây thì trí tưởng tượng có phong phú tới đâu cũng chịu thua …không thể đẻ ra được loại đất Xanh lấy chỗ  cho Thanh đế làm vua  …
 Cái nôi Tây bắc Trung quốc liệu có thể là vùng trồng trọt cây trái xum xuê cho thần nông nhập thế ?, có là vùng thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm để phu nhân Luy tổ vợ Hoàng đế tạo ra lụa ?, vùng đất ấy liệu cây trà có thể mọc được không ? , cổ thư Trung hoa chép Viêm đế thần nông đã nhấm nháp lá trà xanh và phát hiện ra dược tính qúy giá của loại thảo mộc này ?
 Xem ra thuyết Hoàng đế là vua Hoàng thổ khó mà đứng vững …
 4 phương trời  và vua các  phương chiếu theo Cửu thiên :
 
http://i42.servimg.com/u/f42/13/82/82/20/image135.jpg
 
 
 
Thông tin về 4 vị vua Thái Cổ của Trung Hoa theo sách Lã thị xuân thu phản ánh  nhất quán  hệ thống những  Dịch tượng trong Dịch học :
 1. Thanh Thiên cho ra : Bào hy – Mộc Đức – mùa xuân – số 8 của Hà thư (đồ) , phương Đông – màu xanh nên gọi là Thanh đế .
 2.  Viêm thiên cho ra : Thần nông  – Hoả Đức – mùa hạ – phương Nam ( phương Bắc – bức nóng xưa theo dịch lý) –  số 7 – màu đỏ tức Viêm Đế .
 3. Hạo thiên →Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – số 9 – màu trắng  gọi là Bạch đế .
 4.Huyền thiên → Xuyên Húc – Thủy Đức – mùa đông – phương Bắc ( tương tự như phương nam trên ngược với ngày nay ) – số 6 – màu đen nên có Hắc đế .
 Đế …còn lại là :
 5. Quân thiên cho ra đời : Hiên viên  – Thổ đức (tạm gọi thế) – không thuộc mùa nào – đất là vùng chính giữa  – là số 5 của Hà thư – màu vàng nên vua có tên  là Hoàng đế (đế màu vàng ≠ hoàng đế danh từ chung) .
 Sở Từ (楚辭) cũng nói đến Ngũ Đế theo như là các vị thần ở các phương:
    Thiếu Hạo  đế phương đông .
    Chuyên Húc  đế phương Bắc .
    Hoàng Đế đế vùng chính giữa .
    Phục Hi đế phương tây .
    Thần Nông đế phương nam
 Định Như  thế  …4 phương của Sở từ  lộn ngược so với sách Lã thị xuân thu .
 Nói đến thần của 4 phương tức Sở từ cũng như những Cổ thư khác của Trung hoa đặt Hoàng đế và Viêm cùng 1 thời đại , cả 2 là con của Thiếu Điển , mẹ của họ là con gái của họ Hữu Qua (họ qua – Qúa = Việt – vượt ?), Viêm Đế ḿnh người đầu trâu, lớn lên ở sông Khương, nhân đó đặt làm tính , sử viết là họ Khương , Hoàng đế cũng lấy địa bàn trú chân của bộ tộc là sông Cơ làm họ .
 Xét tới đây ta ghi nhận dựa vào cổ thư Trung hoa  thì có 1 Viêm đế sống cùng thời với Hoàng đế và Xi vưu ; cả 3 bộ tộc của 3 tộc trưởng này đã thống nhất thành Trung Hoa khởi thủy do Hoàng đế  cai quản .
 Nếu Hoàng đế và Viêm đế là anh em cùng cha thì hoá ra tổ của nước Việt so với  người Hoa là thuộc hàng “chút chít ”  vì  sử Việt nam viết …Đế Minh (tổ dân Việt nam) là cháu 3 đời của Viêm đế Thần nông …và nếu qủa đúng như thế thì người Việt hôm nay cũng là ‘Viêm Hoàng tử tôn’ chính hiệu sao ?.
 Nhưng ngoài cái nhìn đồng đại cổ thư Trung hoa còn cái nhìn khác , cái nhìn lịch đại …
 Thần Nông lấy con gái của họ Bôn Thủy tên là Thính Yêu làm vợ, sinh ra Đế Đồi. Đồi sinh ra Thặng, Thặng sinh ra Đế Minh, Minh sinh ra Đế Trực, Trực sinh ra Đế Li, Li sinh ra Đế Ai, Ai sinh ra Đế Du (võng ?) . Cả thảy tám đời, năm trăm ba mươi năm th́ họ Hiên Viên nổi dậy đánh bại  mà lên làm vua , họ Hiên Viên thay thế họ Thần nông mở ra trang sử mới của Trung hoa cổ đại . Xét theo quan niệm này thì Viêm đế và Hoàng đế không phải 2 ông vua mà là 2 dòng vua hay 2 triều đại , Triều đại Viêm đế có tới 8 vua nối nhau trị vì Trung hoa hơn 500 năm , phải chăng tích Viêm đế đánh nhau với Hoàng đế để  về sau  hình thành ra dòng giống ‘Viêm Hoàng tử tôn’ là ý nói đến Viêm đế ‘đời cuối’ và Hoàng đế ‘đời đầu’ ?
  Sử gia Việt chắc hẳn đã căn cứ vào cái xâu chuỗi 8 vua dòng Thần nông Viêm đế  mà ghi vào sử Việt ….Đế Minh là cháu 3 đời vua Thần nông – Viêm đế   ?…nhưng như thế thì lại xảy ra …lộn ngược 1 cách ngoạn mục ….Hoàng đế có vai vế chỉ ngang  Dũ võng cháu 4 đời của đế Minh (đế Minh – Trực – Lí – Ai – Dũ võng) …thế là làm sao ? Không đầu óc nào hiểu nổi ….giữa Hoàng đế và đế Minh thì ai là cháu ai ???
 Rối rắm chưa đủ  Hoàng Phủ Mật cho rằng Thiếu Điển là tên nước (không phải tên người ?)  chư hầu họ Hữu Qua , vậy th́ hai Đế họ Khương họ Cơ cùng có gốc từ họ (?) Thiếu Điển, mẹ của Hoàng Đế lại là con gái (thuộc ?) đời sau (cùng 1 dòng ? ) của mẹ của Thần Nông, đấy đều là con gái của họ Hữu Qua (qúa = vượt – Việt ?) vậy.  (Trích internet ).
 Phải chăng ông ta muốn nói Viêm đế và Hoàng đế không phải là anh em 1 cha mà chỉ là 2 người cùng mang ‘quốc tịch’ nước Thiếu Điển ?. Vế sau nói về mẹ của 2 vị thì  không biết do tác giả hay người dịch mà căng óc ra cũng không nắm rõ  ý muốn nói gì ?   chỉ có thể đoán ý   khi thêm vào những chữ trong ngoặc  ….tính theo mẫu hệ thì Hoàng đế là đời sau hàng con cháu Thần nông Viêm đế …như vậy thì rất có thể Hoàng đế và đế Minh là anh em cùng1 dòng giống và cũng không loại trừ  điều có thể  Minh và Hoàng là 2 tên gọi của 1 nhân vật lịch sử  .
 Về những thủ lãnh  đầu của cộng đồng Trung hoa xét theo cách nhìn của sách Lã thị xuân thu thì đầy đủ toàn diện hơn quan điểm thần 4 phương đồng đại của Sở từ  vì Dịch học trùm bọc cả Không và Thời gian nên ngoài việc làm chủ không gian như những vị thần của 4 phương và Trung tâm , Ngũ đế tiên khởi Trung hoa còn là  chủ của thời gian tức thần của 4 mùa .
 -     Xuân đế – Bào hy
 -     Hạ đế  – Thần nông cũng là Viêm đế .
 -     Thu đế – Thiếu hạo
 -     Đông đế  – Xuyên húc
 -     Hoàng đế không có đất đứng trong vòng thời gian 4 mùa thể hiện của Tứ tượng trong chu kỳ  năm .
 Vì vậy xét trong quan điểm ‘lịch đại’tức  trong tuần tự thời gian  thì không thể có chuyện tên phản đồ Hoàng đế giết thày là Thần nông –Viêm đế  tiếm ngôi như trong truyền thuyết dân gian Việt và việc họ Hiên Viên thay họ Thần nông làm vua trong truyền thuyết Trung hoa , Hoàng đế không mùa thì làm sao chen vào cái vòng tròn 4 mùa khép kín ấy .
Sử thuyết Hùng Việt đưa ra cái nhìn mới cho thời tạo lập  thiên hạ .
 * Thoạt kỳ thủy – thần thoại thành người .
 - Thần Bàn Cổ tức  Bản cả nghĩa là ông cả của bản làng ,người Việt nam gọi là ông Bành tổ tượng trưng thời đại bắt đầu có tiếng nói tức hệ thống tín hiệu âm thanh để giao tiếp với đồng loại tức lúc con người cá thể biến thành con người xã hội
 - Thần Toại nhân chỉ thời bắt đầu biết dùng lửa tức lúc bắt đầu biết suy tư  , ánh sáng giúp thoát khỏi sự tối tăm cả trong môi trường và não bộ  .
 -Thần Hữu sào với cây sào đo bóng nắng tính thời gian chỉ thời con người bắt đầu có ý niệm thời gian , sau thời biết trên biết dưới đến lúc biết trước biết sau hoàn thiện khả năng tư duy cả cụ thể lẫn trừu tượng biết là có cả những cái không nhin thấy …bước đầu biết đoán những điều sẽ xảy ra …
 * Huyền sử dòng họ Hùng .
 - Xuân đế hay Thanh đế Bào Hy – Động đình quân còn gọi là Thái Cao thị:
 Con người Biết định lượng 1 cách chính xác với hệ số đếm và số thứ tự , bắt đầu thiết lập công thức về sự liên quan các  biến đổi trong không và thời gian bằng hệ thống tín  hiệu tức thời hình thành Thập can biểu diễn bằng các nút  giây thắt và 2 Đồ hình Hà thư và Lạc đồ của dịch học nút số , Trên thang tiến bộ thì đây là thời biết lấy vỏ cây che thân không còn trần trụi tự nhiên .
 -Hạ đế hay Xích đế -Thần nông – Thái Viêm- Cao Tân thị  .
 Thời nông nghiệp khởi thủy , con người bắt đầu bứt phá khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào những gì sẵn có trong tự nhiên không chỉ còn là phát kiến mà bắt đầu biết phát minh bằng bàn tay khối óc tạo ra những gì cần thiết đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống .
 Bổ sử do Tư mã trinh soạn chép  : Đức thuộc hỏa mà làm vua, cho nên gọi là Viêm Đế, Đẽo gỗ làm cuốc, uốn gỗ làm cày, làm các đồ làm ruộng để dạy muôn người. Bắt đầu dạy cày bừa, cho nên hiệu là Thần Nông Thị , nếm trăm loại cỏ tìm ra  thuốc chữa bệnh Sau cùng là phát kiến vô cùng lớn đối với văn minh Trung hoa là   đặt ra các quẻ của  Dịch học Vạch quẻ . Điều lạ lùng là chính Thái Viêm thần nông làm ra phần căn cốt của Dịch là các quẻ vạch lại không có tên trong các Thánh Dịch , thay vì tứ thánh như xưng tụng trong sách vở Trung quốc thì phải là Ngũ thánh và tên thánh Dịch Thần nông  phải xếp ngay sau thánh  Phục hy trong cái trật tự Phục Hy Văn vương Chu công Khổng tử mới phải chứ ?, đây  là 1 dấu hỏi lớn phải chăng còn điều gì khuất tất vô cùng to lớn ẩn phía sau ?.
 Điều xác định hệ trọng cho lịch sử dòng giống Việt là : chính Thái Viêm Thần nông mới là tổ 3 đời của đế Minh và là viễn tổ của người Việt , Viêm đế nhân vật cùng thời với đế Hoàng cũng chỉ là tằng tôn chút chít của ngài mà thôi , cổ thư Trung quốc đã lầm lẫn tai hại khi cho Thái Viêm và Viêm đế là một  tạo ra 1 mớ thông tin hỗn độn về hành trạng của 2 nhân vật lịch sử có lẽ sống cách nhau  phải đến vài ngàn năm .
 -Thu đế hay Bạch đế -Thiếu hạo – Thái Khương  - Kim thiên thị .
 Phương tây chủ tĩnh – con người bắt đầu định cư định canh không mãi lang thang như đàn thú , định cư cùng với định canh là lúc  bắt đầu hình thành  cộng đồng , ban đầu chủ yếu dựa vào liên hệ máu huyết , đây là lúc hang → hàng →hương và hốc →họ→hữu sau mới mở rộng dần thành quan hệ xã hội .
 Cuối thời Thu đế có lẽ là lúc người ta biết dựa vào hình ảnh con rùa mà chế ra nhà sàn , tư liệu cổ Trung quốc gọi là nhà ‘can lan’.
 -Đông đế hay Hắc đế – Xuyên húc – Thái Tiết – bà Vũ Tiên – Cao dương thị .
 Việc Định cư đã tạo thành những cộng đồng dân cư quy mô nhỏ , ngoài thông tin con người bắt đầu bước  biết trao đổi sản vật , nhu cầu giao thông giữa các nơi đòi hỏi phải có  phương tiện giao thông , Dịch tượng của phương nam là sông nước , vua là Xuyên húc đã chỉ ra sự giao thông ban đầu nối kết  các cộng đồng là  đường sông  với phương tiện là bè mảng , việc phát minh ra các phương tiện di chuyển đã nối kết các cộng đồng nhỏ thành 1 cộng đồng lớn , xã hội bước đầu có sự phân công trong sản xuất và trao đổi hàng hóa , việc này đã nâng cao năng suất lao động   tạo ra được 1 lượng sản vật cung cấp cho số người không trực tiếp sản xuất .
 Vì vòng xoáy trôn ốc ‘Ngũ thái’ hình thành trên quan niệm Lịch đại lấy 4 mùa làm chuẩn nên không thể có chuyện Thái Công – Hoàng đế chen ngang vào giữa Thái Viêm – Thần nông và Thái Khương – Thiếu hạo  tạo ra cảnh ‘ông chằng bà chuộc’ chẳng ra sao trong thời thái cổ như đã nêu ra ở phần trên của bài  .
 Trên bước đường văn minh Từ thời ông Bành tổ cho đến hết thời Đông đế , con người đã đi 1 đoạn đường dài không biết bao năm tháng , nay có chăng những sự việc là dấu mốc  quan trọng trong những năm dài đó  cũng chỉ còn đọng lại trong kí ức cộng đồng một cách mơ hồ ,cơ hồ như  phi không phi thời và thường mang tính gỉai thích sự kiện đượm màu tiên thánh phóng tác hơn là ký sự , tập hợp những điều ấy gọi là truyền thuyết lịch sử , nếu ai đó hỏi….Thần nông ‘giáo dân nghệ ngũ cốc’  cụ thể ở đâu , lúc  nào ? thì kẻ hèn này  đành  thua không thể  có câu trả lời thỏa đáng …với trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện nay cao lắm thì cũng chỉ có thể …đoán là ở vùng ‘Châu Á gío mùa’ vào  khoảng  trên dưới 10.000 năm cách nay .
 Thực chất huyền sử dòng họ Hùng chính  là lịch sử văn minh người họ Hùng .
 *Sơ sử nước họ Hùng .
 -     Thái công – Hoàng đế dựng nước :
 Vào cuối thời ‘Đông đế’ khi hoàn tất 1 chu kỳ xoáy trôn ốc của tiến trình văn minh , xã hội đã hội đủ tiền đề vật chất và tri thức để con người bước lên  nấc thang mới trong hình thái tổ chức  cộng đồng, sự ra đời loại hình tổ chức kiểu quốc gia thay thế cho những liên minh thị tộc là tất yếu .
 Hiên Viên  tước hiệu Thái Công là vì ‘Thái’ hay tổ phụ sau cùng của truyền thuyết , đây là thời bản lề nối 2 thời kỳ lịch sử : Thị tộc và quốc gia , vị Thái hay tổ phụ sau cùng của họ Hùng tức ‘thị tộc Hùng’ cũng chính là vị đế đầu tiên của lịch sử  ‘nước họ Hùng’ ,  danh xưng rõ ràng  hàm  ý  chuyển tiếp …họ Hùng thì còn là  thị tộc nhưng  nước họ Hùng là đã lột xác  chuyển thành quốc gia .
 Theo cổ thư Trung hoa thì Hoàng đế là  vua  khai quốc nước họ Hùng – Hữu Hùng quốc , truyền thuyết Việt gọi là đế Minh , Hiên viên chỉ là tam sao thất bản của Hiền vương – Hiền đế – Hiền đức lang .
 Danh hiệu ‘đế màu vàng’ là  vận dụng ngũ sắc dịch học vào lịch sử , không có ông vua nào tên là Vàng cả , Vàng là sẳc của trung tâm , khi nói về đất là chỉ  Trung nguyên hay trung thổ , tiếng Việt dân gỉa gọi là ‘chỗ giữa’ Hán văn đảo ngược ‘ giữa chỗ’ và biến âm thành ‘Giao chỉ’ , ‘Hoàng’ đế đích thị là chức hiệu của vua ‘Giao chỉ’ . Vua kiến lập ‘nước họ Hùng’ gọi là Hùng vũ vương (vua↔vũ) là qúa đúng không thể nào bác được nhưng …lạ lùng là  chỗ ‘nước họ Hùng’ hay ‘Hữu hùng quốc’ là nước của sử Trung hoa nhưng Trung hoa lại không  có Hùng vương ngược lại  Hùng Vũ vương là 1 trong 18 Hùng vương của sử Việt mà sử Việt thì …thời Hùng vương không  có quốc hiệu ‘nước họ Hùng’.
 Sử Việt gọi là đế Minh theo nghĩa là nguồn sáng , đế Minh là vua vùng sáng, đất Minh nghĩa bao trùm cả chữ Trung và chữ Hỏa ghép lại mà thành ,  Trung – hỏa ý chỉ Trung tâm văn minh soi sáng cho cả thiên hạ chứ không có ông vua Việt nào tên là Minh , căn cứ trên cái nền Dịch học thì đế Minh và đế Hoàng chỉ là một , là vua miền trung tâm thiên hạ ví dụ như kinh đô nhà Hạ trung hưng được gọi là Minh điều , minh là kinh đô , điều là đào – đỏ , Hạ – hoả – đỏ – hồng – thiêu đốt cùng 1 hệ Dịch tượng , nước lập trên đất ấy gọi là nước Đào hay Thao đồng nghĩa với Hồng bang – Hồng bàng , dẫn chứng khác :Kinh  Đô của Trưng vương là  Mê – linh , mê linh chỉ là 2 từ phiên thiết của Minh , Minh nghĩa là kinh đô vậy  .
 Xét như trên đế Minh không phải là ông vua tên là Minh cho nên đế Minh của sử Việt không liên quan gì đến dòng dõi 8 đời đế của Thần nông thị , sở dĩ sử chép Đế Minh là cháu 3 đời của Thần nông Thái Viêm vì cái thứ tự vòng ‘ngũ thái’ :Thái Viêm – Thái Khương – Thái Tiết sau cùng đến Thái Công tức Đế Minh – đế Hoàng  tính ra là cách nhau 3 đời  .
 Xem ra không thể lý giải hướng nào khác là : lịch sử cổ đại người Trung hoa và Việt nam là ‘một’ . Ngày nay mỗi dân tộc chỉ còn giữ được 1 mảng của lịch sử chung , không kể sự phá hoại có chủ ý , khách quan thôi thì  hiện tại   lịch sử  của cả 2 dân tộc cũng chỉ  là  thiên lịch sử khiếm khuyết bất toàn  .
 Xin trở lại những hàng đầu tiên của bài .
 Khác với thời huyền sử , Qua thời sơ sử lập quốc thì những dữ liệu qúa khứ còn lưu giữ đủ  cho người ngày nay  ước đoán tương đối chính xác về không gian và thời gian diễn ra các  sự kiện lịch sử .
 Hoàng đế họ Cơ vì bộ tộc của ông sinh trú nơi sông Cơ khi lập quốc , Sử thuyết Hùng Việt cho : Cơ chỉ là biến âm của ‘ cao – cả’ tiếng Việt , Sông Cả ở Nghệ an Việt nam , tộc Cả  nghĩa là dòng tộc chính , là cốt lõi đã hình thành nên cộng đồng dân tộc Trung hoa .
 Viêm đế họ Khương trong bài viết mang Khương tính vì bộ tộc sống ở vùng sông Khương nên lấy Khương làm họ , Khương chỉ là biến âm của Khăng (khăng- khăng) chỉ sự không thay đổi , sách vở Trung hoa gọi sông Cửu long là Mễ cương ; khương↔cương , Địa lí Đại nam thời Nguyễn gọi là Khung giang ; Khương↔Khung , ngày nay thông thường gọi là sông Mê kông hay Mê khoỏng ;tất cả đều là biến âm của từ ‘khăng’ nghĩa là không đổi là  tính của phương tây theo Dịch học .
 Tới đây đã rõ :Viêm đế họ Khương mới là đế 5000 trước của  Truyền thuyết lập quốc Trung hoa , ông  là anh em cùng cha với Hoàng đế họ Cơ và cả 2  là con cháu mấy ngàn năm sau của Thái Viêm – Thần nông .
 Truyền thuyết viết …Bộ tộc của Hoàng đế trước cũng ở sông Khương sau mới di cư về sông Cả điều này hoàn toàn đúng với bản đồ thiên di và hình thành tộc người xét theo DNA , thành tựu mới nhất của Di truyền học  , sự việc này buộc chúng ta phải xét lại gía trị của Truyền thuyết Lịch sử ; ký ức cộng đồng của 1 dân tộc sớm phát triển chắc chắn không phải là đống truyện ‘trâu ma rắn thần’ như  có người đã nói ; Mê Công – Cửu long – sông Khương là dòng sông vô cùng quan trọng của lịch sử  dòng họ Hùng , chính đấy mới là cái gốc của ‘Thiên hạ’ không phải  như ‘ai đó’  tuyên truyền lâu nay … quê hương  là  sa mạc mịt mù bụi vàng …
 Không gian và thời gian lập quốc của dòng họ Hùng đã tương đối rõ cũng như  những rắm rối lộn xộn của lịch sử  buổi đầu dựng nước cũng đã  tháo gỡ  ….mọi sự  tạm ổn chăng ?.
 

 

Post ngày: 12/08/18 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18