Home Tìm Ca Dao Trợ Giúp Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   
Năm Thìn Nói Chuyện Rồng Nguyễn Phú Thứ
 

Cứ mỗi năm hết, Tết lại đến, thì có một con vật cầm tinh mới được thay thế, năm 1999 là, năm Kỷ Mẹo, do con Mèo cầm tinh sẽ thay thế bởi con Rồng bắt đầu ngày thứ bãy 5-20-2000, chấm dứt thế kỷ 20 từ năm Canh Tý 1900 và bước sang thế kỷ 21 bắt đầu năm Canh Thìn.
Năm Canh Thìn nầy là năm thứ 17 của Vận Niên Lục Giáp 78. Bởi vì, theo niên lịch Cổ-truyền Á-Ðông xuất hiện được minh định và quảng bá từ năm 61 của đời Hoàng Ðế bên Tàu bắt đầu từ năm 2637 trước Công nguyên (căn cứ theo sách Connaissance du Việt-Nam của Pierre Huard và Maurice Durand viết - Paris imprimerie Nationale École Francaise D'Extrême-Orient Hà-Nội 1954 phát hành), cho nên chúng ta thây 2637 + 2000 = 4637, rồi chia cho 60 năm tức Vận - Niên Lục Giáp 77 và số còn dư 17 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp 78 bắt đầu từ năm 1984 đên năm 2043. Do vậy, năm 2000 là năm thứ 17 của Vận Niên Lục Giáp, 78 là thế đó.
Nhớ lại, năm 1999, ỏ Lyon (Pháp-Quốc), các khu chợ của người Pháp, sau khi buôn bán vào dịp Lễ Giáng Sinh, rồi Tết Tây, Bonne année 4697 c'est le nouvel an Chinois nữa. Bởi vì, họ lấy năm 2637 + 1999 + 61 = 4697. Nhưng xét cho kỷ niên lịch cổ truyền Á-Ðông bắt đầu từ năm 61 của Hoàng Ðế bên Tàu, chớ không phải bắt đầu từ năm 1 của Hoàng Ðế bên Tàu, cho nên không thể cộng thêm 61 năm. Do vậy, Tết năm 1999 tức là Niên Lịch Cổ Truyền Á Ðông thứ 4636, chớ không phải năm 4697.

Năm 2000 là năm Canh Thìn, thuộc thời Hạ Nguyên bởi vì, thời Hạ-Nguyên tính từ năm 1984 là năm Giáp Tý đến năm 2043 là năm Quý Hợi - Thời Trung Nguyên tính từ năm 1924 là năm Giáp Tý đến năm 1983 là năm Quý Hợi và thời Thượng Nguyên tính từ năm 1864 là năm Giáp Tý đến năm 1923 là năm Quý Hợi.

Chữ Tết là do chữ tiết mà ra tức thời tiết. Ở Việt Nam chúng ta thời tiết Miền Nam không rõ-ràng minh bạch hơn Miền Bắc, mặc dù cũng tính theo dương lịch như sau :

-Mùa Xuân bắt đâàu ngày lập Xuân là ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng 5, giữa mùa Xuân có ngày 21 tháng 3 thì đêm và ngày bằng nhau. Ðó là ngày Xuân Phân.
-Mùa Hạ bắt đầu từ ngày lập Hạ là ngày 6 tháng 5 đến ngày 8 tháng 8, giữa mùa Hạ, có ngày 22 tháng 6 là ngày dài nhứt trong năm. Ðó là ngày Hạ Chí.
-Mùa Thu bắt đầu từ ngày lập Thu là ngày 8 tháng 8 đến ngày 8 thangù 11, giữa mùa Thu, có ngày 23 tháng 9 thì đêm và ngày bằng nhau, giống như ngày 21 tháng 3 mùa Xuân vậy. Ðó là ngày Thu Phân. Ðối với mùa Thu nầy, ở các nước Âu Châu, những chiếc lá đổi màu vàng, rồi từ từ rơi rụng trông rất đẹp mắt, tuy nhiên nếu so sánh với nước Gia Nã Ðaiï (Canada), thì thua xa, bởi vì cái màu đỏ thẩm của lá ở xứ nầy.
-Mùa Ðông bắt đầu lập Ðông là ngày 8 tháng 11 cho đến ngày 5 tháng 2, giữa mùa Ðông, ngày 22 tháng 12 là ngày ngắn nhứt trong năm. Ðó là ngày Ðông Chí.
Riêng đối với bà con nông thôn ngày xưa, thường tính một năm có 4 mùa rất giản-dị là chia đều nhau, mỗi mùa có 3 tháng tính theo âm-lịch như sau :
-Mùa Xuân băét đầu ngày mùng 1 Tết tháng Giêng cho đến cuối tháng Ba.
-Mùa Hạ từ đầu tháng Tư cho đến cuối tháng Sáu.
-Mùa Thu từ đầu tháng Bảy đến cuối tháng Chín.
-Mùa Ðông từ đầu tháng Mười đến cuối tháng Chạp.
Trong dân gian Việt-Nam chúng ta, thói thường tính theo âm-lịch, cho nên những câu Ca-dao tục-ngữ có liên-quan đến các tháng và các mùa trồng trọt của nhà nông hết sức trung-thực, đúng lúc, xin trích-dẫn đơn cử như sau :

Tháng chạp là tháng trồng khoai (
Tháng giêng trồng đậu,
Tháng hai trồng cà,
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
( Tháng chạp cũng là tháng ăn chơi, vì nhà nông sau vụ lúa, thì lo trồng hoa màu phụ như : khoai, đậu, cà, bắp.. để sau khi ăn Tết và đến cuối tháng hai đầu tháng ba mới lo cày bỏ hoa màu phụ mà trồng lúa chánh thức.

Hoặc là :
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Ðoan Ngọ trở về tháng năm (2)
Tháng sáu buôn nhẫn bán trăm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân, (3)
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng mười một, tháng chạp nên công hoàn thành.
(2) Tết Ðoan Ngọ nhầm ngày mùng 5 tháng 5 âm -lịch.
(3) Trong tháng tám nầy thường làm lễ Trung-Thu, nên làm các lồng đèn đủ loại, trong đó có đèn kéo quân.

Trong khi đó, ở Âu Châu, nhứt là nước Pháp cũng tính một năm có 4 mùa, ví như năm 1999 như sau :
-Mùa Xuân bắt đầu từ 21 - 03 đến 20 - 06.
-Mùa Hạ bắt đầu từ 21-06 đến 22-09.
-Mùa Thu bắt đầu từ 23-09 đến 21-12.
-Mùa Ðông bắt đầu từ 22-12 đến 20-03-2000.

Trở lại Năm Thìn nói chuyện Rồng, chúng ta đều công nhận con Rồng là một linh vật đứng đầu trong tứ linh là Long, Lân, Qui,Phụng ( Rồng là linh vật tổ của tộc Việt Á Châu -Lân là linh vật, hình dáng giống con sư-tử, vua chúa có nhân đức lắm mới thấy nó. Do vậy, người ta bong hình con vật nầy để múa trong dịp bước sang năm mới, với ý muốn mọi nhà đều được lân đến, thì cả năm làm ăn phát đạt -Qui là linh vật cũng là loại Rùa, nhưng nó rất quý hiếm như Rùa vàng - Kim Qui hay Thần Rùa - Thần Qui - Phụng là chúa loại cầm thú, có lông ngũ sắc tuyệt đẹp vô cùng, cho nên có câu Tiên sa phụng lộn là thế đó. Ðây là con vật thứ 4 của tứ linh).

Trong kho tàng ca dao, tục-ngữ, thành ngữ trong dân gian Việt Nam, cũng có nói đến con Rồng xin trích dẫn như sau :
Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi.

Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu bực mình.

Rồng giao đầu, Phụng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt : Mình thương tui không mình ?

Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Ðồng Nai,
Sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây,
Bao giờ bén rễ xanh cây thì về !.. (Ca dao)

Rồng đen lấy nước thì năéng,
Rồng trắng lấy nước thì mưa .. .(Tục ngữ)

Rồng bay Phụng múa - Rồng mây gặp hội.
Rồng đến nhà Tôm - Rồng thiên uốn khúc.
Rồng ở với Giun - Vẽ Rồng, vẽ Rắn .. (Thành ngữ)

Ngoài ra, Rồng là con linh vật cao quý nhứt, cho nên tượng trưng cho vua chúa bởi có các chữ như sau :
Long vương = Vua (Thần) biển.
Long bào = Áo vua - Long nhan = mặt vua
Long thuyền = Thuyền để vua đi, (ngự).
Long sàng = Giường vua ngủ, (ngự).
Long mạch = Mạch Rồng, chổ đất thạnh vượng, có chôn ai xuống đó, thì con cháu sẽ được giàu sang.
Long huyệt = Hàm Rồng - Long phi = Hoàng hiệu Rồng bay - Ngân Long phi = Tiền có hình Rồng bay.. ..
Ðền Rồng = Ðền vua - Ngai Rồng = Ngai vua ngự - Bệ Rồng = Bệ Rồng bệ vua ngụ - Rồng chầu = Rồng chực chầu vua chúa. Nên có câu : Rồng chầu, Hổ phục - Thuyền Rồng = Thuyền vua ngự - Hội Rồng mây = Hội vua tôi gặp gở .. .
Ngoài ra, chúng ta còn thấy các danh - từ nói về Rồng nữa như sau : Múa Rồng múa Rắn, cây xương Rồng, cây lưởi Rồng, đậu Rồng, cá Rồng Rồng .. hoặc là duyên cỡi Rồng là để chỉ duyên gái lành gặp chồng tốt ... Giờ Thìn = là giờ từ 7 giờ đến 9 giờ sáng - Tháng Thìn là tháng Ba của âm - lịch. Trong tiếng Pháp thường dùng Le Dragon = Con Rồng đực.
Những ai sanh trong khoảng thời gian trên trong thế kỷ 20 thuộc năm Thìn, riêng năm 2000 bắt đầu đêm 5-20-2000 mới bước sang năm Canh Thìn.

Ðặc biệt, dân tộc và đất nước Việt-Nam chúng ta đối với Rồng (Thìn) rất mật thiết với nhau, bằng chứng là dân-tộc chúng ta giòng giống Rồng Tiên, theo truyền thuyết, Cha là Lạc-Long-Quân (gốc Rồng), kết hôn với mẹ là bà Âu Cơ (Tiên Nữ), rồi sanh bọc trăm trứng, từ đó, dân-tộc chúng ta xem như giống Rồng Tiên. Nếu chúng ta nhìn hình thể đất nước Việt-Nam từ Bắc chí Nam với hình cong chữ S, không khác con Rồng nằm uốn khúc dọc theo bờ biển và các địa danh như : Long Ðổ, (rún Rồng), Long Biên, Thăng Long (tên thủ đô Việt tộc vào thế-kỷ thứ 6), Vịnh Hạ-Long (đây là kỳ-quan thế-giới công nhận), Bình Long, Phước Long, Long Thành, Long Khánh, Long Hải (bải tắm đẹp ở Vũng Tàu), Long Bình, Long-An (nếu ai đi trên đường từ Sài gòn về Miền Tây thì sẽ qua cầu Bến Lức thuộc Tân An ngày xưa, nằm trong lãnh thổ Long An), Long Hồ (nằm trong lãnh thổ Vĩnh Long), Long Mỹ (nằm trong lãnh thổ Chương Thiện), Thới Long (đây là một xã thuộc quận Ô- Môn, Tỉnh Cần-Thơ tức Hậu-Giang ngày nay, nơi đây có nhiều cây trái danh tiếng nhứt là Cam, Bưởi ...). Ở Miền Tây có 2 địa danh mang tên Long, trở thành tỉnh lỵ, không những có những cây lành trái ngon ngọt, mà còn sanh ra tuấn kiệt nữa. Ðó là Vĩnh Long và Long Xuyên ...

Ðất nước chúng ta trải dài từ Bắc xuống Nam, bởi con Rồng xuyên Việt. Ðó là sông Cửu Long, bởi vì con sông nầy phát nguyên từ cao nguyên xứ Tây Tạng, có chiều dài hơn 4000 cây số, chạy qua các nước Trung Hoa, Lào, Cao Miên (Campuchia), nơi đây, có một nhánh thông vào biển hồ Ton Lé Sáp, rồi xuôi về Nam bằng hai nhánh là : Tiến Giang và Hậu Giang, còn gọi là sông Bassac, cuối cùng thoát ra bằng 9 cửa sông, cho nên có tên gọi là sông Cửu Long (tức 9 con Rồng).
Như chúng ta đã biết, dân tộc Việt-Nam là giống Rồng Tiên, cho nên đất nước Việt-Nam cũng kết tạo từ Miêàn Bắc với thủ đô Việt tộc Thăng Long, với kỳ quan thế giới Vịnh Hạ-Long tức là cha Rồng, còn mẹ Tiên tức ở địa danh rất đẹp, có đồi núi, có sông biển hùng vĩ và đầy thơ mộng. Ðó là, Hà Tiên thuộc tỉnh Rạch Giá (Kiên-Giang).
Nhân dịp bước sang năm mới Xuân Canh Thìn năm 2000, cũng là năm bước sang thiên niên kỷ thứ 3, xin kính chúc quý bà con đồng hương mọi nhà được THĂNG LONG như RỒNG, nhứt là làm ăn thịnh đạt, sức khỏe dồi dào, mọi sự hạnh thông là mừng.

Kỷ niệm cuối thiên niên kỷ thứ 2
Mừng Xuân Canh Thìn, 2000
NGUYỄN PHÚ THỨ

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18