Đất Phú Yên Qua Những
Bài Ca Dao
Ngọc Anh
Theo
Đại Nam Nhất Thống Chí thì tỉnh Phú Yên xưa vốn là đất Việt
Thường thị. Đời
Tần (năm 221-206 trước công nguyên) thuộc Tượng Quận. Đời
Hán (206 trước công nguyên – 220 sau công nguyên) vốn đất Lâm Ấp. Đời
Tùy (561-618 sau công nguyên) trở thành quận Lâm Ấp. Đời
Đường (618 - 907) đổi
làm châu Lâm, rồi bị Chiêm Thành chiếm để trở thành đất Bà
Đài và Đà Lãng. Năm
1602 Nguyễn Hoàng chiếm lấy lập ra phủ Phú Yên để trở thành
mảnh đất của nước Việt ngày nay.
Phú
Yên là tỉnh lị nằm cạnh mặt biển ở hướng đông. Hướng
bắc giáp tỉnh Bình Định với đèo Cù Mông hiểm trở. Hướng
nam giáp tỉnh Khánh Hoà và tỉnh Đắc Lắc. Hướng
tây giáp nước Ai Lao. Thời
Cộng Hoà thì tỉnh Phú Yên được chia làm hai tỉnh gồm có tỉnh
Phú Yên và tỉnh Phú Bổn. Phú
Yên có nhiều núi rừng, vốn là quê hương của người anh hùng Châu
Văn Tiếp.
Áng mây che ngọn
núi Sầm,
Rủ nhau ta đến tìm trầm Phú Yên.
Núi cao còn có
kiền kiền,
Giáng hương, gõ,
trắc, khắp miền tiếng vang.
Không chỉ
bài ca dao trên nhắc đến tên Phú Yên, mà có những bài ca dao
khác cũng đề cập đến tỉnh lị này, tức nhiên Phú Yên phải có
một số điểm đặc biệt nào đó. Trong
trường hợp của bài ca dao trên, ta có thể thấy nhiều điểm đặc
biệt của tỉnh Phú Yên. Trước
hết là Phú Yên có nhiều trầm hương, vốn là một trong những
vật quý giá.
Trầm là
gỗ cây gió bị thương tích lâu ngày chất dầu đọng lại có mùi
thơm, người ta dùng làm thuốc và đốt lên để lấy hương thơm. Trầm
rất khó tìm, có thể vì thế mà trở nên vật hiếm quý qua câu
chuyện truyền thuyết “ngậm ngải tìm trầm”. Ngải
vốn là loài cây trông giống như cây nghệ, trường hợp bị trặc
gân, gẫy xương, người ta bó ngãi để chữa chỗ trặc hay gẫy. Ngoài
việc sử dụng như một vị thuốc, các thầy mo còn dùng ngải
luyện thành thuốc để mê hoặc người khác, hay giúp người thực
hiện một việc khó làm nào đó. Ngày xưa vì thiếu những vật
phòng thân như thuốc men, vũ khí để bảo vệ lấy mình trong trường
hợp gặp thú dữ, rắn rít hay bệnh hoạn nên một số người phải
nhờ đến ngải trong việc vào rừng để tìm trầm, với hy vọng
việc đi tìm trầm được dễ dàng hơn. Người
ta tin rằng nếu ngậm ngải này vào miệng thì sẽ tránh được ác
thú, rắn rít, chưa kể có thể chịu đựng được sự đói khát,
mệt mỏi lúc băng rừng, lội suối. Nhưng
cái giá phải trả đối với việc xài ngải cũng không phải nhỏ,
trường hợp người ngậm ngải bị lạc đường, không thể trở về
trong thời gian hạn định thì ngải sẽ biến họ thành người rừng
phải sống trong rừng suốt đời. Dĩ
nhiên đây chỉ là truyền thuyết cho thấy việc đi tìm trầm khó
khăn như thế nào, còn có thật hay không, còn cần sự kiểm
chứng.
Ngoài việc sản xuất
trầm, Phú
Yên còn sản xuất nhiều gỗ quý như kền kề, giáng hương, gõ,
trắc. Ta thấy điều này
không có gì lạ vì rừng núi ở Phú Yên trùng trùng, điệp điệp
với các dãy núi Xuân Đài, Thạnh
Hãn, Lương Sơn, Ôn Trì...., hay đèo Cả, đèo Cục Kịch, đèo
Đá...
Nhưng ca dao nhắc Phú
Yên không phải chỉ chừng bấy nhiêu đó, mà còn nhắc đến Phú Yên
qua những địa danh khác vì những món ngon vật lạ nữa,
Cá ngon là cá Cù
Mông,
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương.
Phá Cù Mông vốn nằm
phía đông núi Cù Mông trong tỉnh Phú Yên, nơi có đầm Cù Mông
với bãi cát vây quanh cùng nhiều hòn đảo. Phá
là eo biển có doi đất chận, nên thường gây nhiều sóng gió, mà
trong các phá thì phá Tam Giang lúc chưa bị lấp cạn đã từng
nổi tiếng với nhiều sóng dữ khiến
người nào ngang qua đó đều không khỏi ôm mối lo sợ. Ngược lại
phá Cù Mông tuy cũng là phá nhưng lại hiền hoà, chẳng những
không gây hại cho người, còn mang đến cho con người những con cá ăn ngon
miệng.
Muốn tròn bữa ăn ngoài
cá ngon, cũng cần có cơm ngon vì như thế mới không phí phạm
món ăn hiếm quý. Với lẽ
đó Phú Yên không những sản xuất cá ngon, còn sản xuất ra những
hạt gạo ngon nơi đồng Đồng Dương để xứng với những con cá được
vớt từ đầm Cù Mông
.
Phú Yên có những địa
danh nổi tiếng hay đẹp, thì Phú Yên cũng có những địa danh tạo
nên nỗi lo sợ cho con người.
Lấy chồng Phú Cốc
sợ beo,
Lấy chồng Mỹ Á hồn treo cột buồm.
Đọc hai câu ca dao trên,
ta có thể nghĩ đó là cái cớ của một nàng con gái đẹp kiếm
cách từ chối khéo chuyện muốn gá nghĩa của một chàng độc
thân nào đó ở hai địa danh Phú Cốc và Mỹ Á; mà cũng có thể
là lời khuyên thành thật dành cho các cô gái muốn tính chuyện
trăm năm với những chàng trai ở Phú Cốc và Mỹ Á. Việc
từ chối khéo, hay lời khuyên cẩn thận kể trên không thể là lời
khuyên suông, chắc chắn hai địa danh Phú Cốc và Mỹ Á đã có
sẵn những mối đe doạ, bởi “không lửa thì không khói”, cho nên ta
hãy thử xem lý do nào việc lấy chồng ở hai miền Phú Cốc và
Mỹ Á lại khiến cho các cô gái phải lưỡng lự như thế.
Phú
Cốc còn có tên là núi Hổ Sơn nằm phía tây huyện Đồng Xuân. Sở
dĩ núi có thêm tên Hổ Sơn vì có hình dáng như con cọp nằm. Nơi
đây núi cao mà đèo cũng cao với nhiều rừng nên có lắm cọp,
beo. Thời xưa vì
phải di chuyển bằng chân hay bằng xe ngựa,
xe trâu...cho nên con người thường dễ bị làm mồi cho hai loại
thú dữ này. Về làm dâu
ở nơi nguy hiểm như thế thì mối sợ hãi đến với nàng con gái
cũng là điều dễ hiểu.
Đối
lại thì Mỹ Á lại là một làng chài xinh đẹp nằm trong huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vì
là làng chài lưới cho nên hằng ngày đa số đàn ông đều phải theo ghe
ra khơi đánh cá. Mà biển
khơi có lúc thì hiền lành nằm lim dim như chú mèo con, nhưng
cũng có dữ dằn như chú
mèo vươn móng vuốt lúc nhìn thấy chuột. Người
phụ nữ thời xưa đã lấy chồng thì gia đình nhà chồng là giang
sơn nhà mình, và chồng chính là phần đời của mình do đó tấm
lòng thương chồng hay chính ra thương mình của người phụ nữ
thật sâu xa. Do đó hằng
ngày nhìn thấy chồng đi vào chốn biển cả mênh mông như thế,
lòng người vợ nào có thể yên tâm cho được. Bởi
lý do đó, mỗi lần chồng lên thuyền thì người vợ hoặc thả hồn
theo cột buồm của con tàu, hay ngóng trông con tầu qua chiếc cột
buồm thấp thoáng từ xa.
Bên cạnh tình yêu đối
với chồng, người phụ nữ cũng buộc tuân theo nền luân lý, vì
lễ giáo do xã hội thời xưa vạch sẵn, buộc người phụ nữ có
chồng hoàn toàn trông cậy vào người chồng và gia đình chồng
với câu “gái chính chuyên một chồng”. Cho
nên dẫu cô gái có yêu chàng trai tha thiết đi chăng nữa, cô cũng
buộc lòng phải tính toán, phải thực tế để nghĩ đến chuyện
trở nên vợ của chàng và trở nên con dâu trong nhà chàng. Ngược
lại với nàng, sự ràng buộc của các chàng không quá khắt khe,
nếu muốn, các chàng thời xưa có quyền “trai năm thê bảy thiếp,
cho nên trong việc yêu đương các chàng thường bồng bột hơn, ít
suy nghĩ tính toán hơn. Ta
sẽ không lạ gì khi thấy chàng trai lúc đã yêu thì quên hết
hiểm nguy, bất kể đường
dài, nhất quyết vượt qua để tính chuyện trăm năm với nàng con
gái mà chàng đã để tâm yêu thương.
Đèo nào cao bằng
đèo Phú Cốc,
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài.
Đèo cao, dốc ngược,
đường dài
Anh còn qua được,
huống gì vài lạch sông.
Cùng một địa danh, cô
gái thì suy nghĩ cẩn thận trước khi tính chuyện làm dâu nơi Phú
Cốc, ngược lại chàng trai thì hết sức hăm hở, bởi lòng anh đã
quyết lấy nàng, thì đèo Phú Cốc có cao hay dốc Xuân Đài thật
dài cũng không thể cản ngăn anh đến bên nàng, huống gì nhà
nàng lại chỉ cách mấy lạch sông như thế. Rồi
như sợ nàng còn e ngại, chàng trai Phú Yên quyết đánh nhanh,
đánh mạnh bằng cách đưa ra những lời dụ dỗ,
Đất Cù Du là
nơi chiếu tốt,
Lãnh nào đẹp bằng lãnh Ngân Sơn.
Em đừng so sánh
thiệt hơn,
Tình anh đây ví thử keo sơn nào bằng.
Dĩ
nhiên lời nói của chàng là lời nói thật. Đất
Cù Du và Ngân Sơn nằm trong huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã nổi
tiếng với chiếu tốt và lãnh đẹp vốn là hai thứ cần thiết cho
ngày tân hôn. Với
tình yêu thắm thiết của chàng và với những lời chân tình mà
chàng đã thốt ra thì nàng đâu thể tính toán thiệt hơn hay mở
lời cự tuyệt cho được. Với
nàng và chàng, đất Phú Yên ngày một thêm đông đảo để tạo cho
Phú Yên ngày một thêm trù phú. Và
ca dao thì vẫn còn rất nhiều bài nhắc đến nhiều địa danh khác
của Phú Yên, nhưng muốn nhắc hết e rằng vài trang giấy không thể
nào kể hết. Dầu
sao qua vài bài ca dao ngắn nêu trên, hy vọng người đọc có thể
mường tượng được vẻ xinh, nét đẹp của một mảnh đất trong toàn
bộ giang sơn gấm vóc của nước Việt vậy.